Vận hành hệ thống điện với độ xâm nhập cao của năng lượng tái tạo
Hiện nay các nguồn phát điện từ năng lượng tái tạo, đặc biệt năng lương mặt trời, năng
lượng gió, đang được tích hợp ngày càng với tỉ lệ tăng dần vào hệ thống điện hiện hữu tại
nhiều nước.
Xu thế với mức độ xâm nhập ngày càng cao của năng lượng tái tạo sẽ đặt ra các vấn đề,
cũng như các thách thức lớn về mặt kĩ thuật, mang tính bản chất vật lí, tính hệ thống mà
lưới điện tương lai buộc phải đối mặt và giải quyết. Bài báo trình bày thực tế này với các
giải pháp cho các vấn đề đặt ra trong trạng thái xác lập, cũng như trong trạng thái quá độ
khi vận hành hệ thống, trong đó các khía cạnh nhằm bảo đảm độ ổn định của lưới điện khi
mức xâm nhập của các nguồn phát từ năng lượng tái tạo sẽ trở nên cao hay quá cao cần đặc
biệt được lưu ý
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vận hành hệ thống điện với độ xâm nhập cao của năng lượng tái tạo
g suất tác dụng của máy được điều khiển qua việc điều khiển moment trên trục máy, và công suất phản kháng được điều khiển qua việc điều khiển dòng kích từ. Nhằm đảm bảo độ tin cậy của HTĐ nối kết, tần số và điện áp hệ thống được điều chỉnh chặt chẽ thông qua kết hợp các bộ điều khiển vòng kín hoạt động nhanh tại mỗi máy (bộ điều khiển điều tốc- speed governor control- đảm bảo giữ tần số trong qui định) và bộ điều khiển máy phát (automatic generator control, AGC) tác động chậm hơn, điều khiển kiểu tập trung, mà nhân viên vận hành hệ thống sử dụng để khôi phục tần số hệ thống về giá trị danh định. Tần số và điện áp là các thông số chính yếu được quy định trong hệ thống và là các mục tiêu điều khiển của HTĐ. Từ quan điểm vật lý, hệ thống tuabin và các bộ phận quay bên trong mỗi MPĐB đều có quán tính cơ học, và như vậy có khả năng tích trữ động năng trong các khối quay. Khi xuất hiện sự cố và nhiễu loạn trong HTĐ, các khối quay này có thể hoặc hấp thu hoặc cung cấp năng lượng, điều này giúp hệ thống nối kết có thể vượt qua các dao động khi có khác biệt giữa công suất phát và công suất phụ tải. Cụ thể, tần số hệ thống sẽ tăng (hay giảm) khi công suất phát lớn hơn (hay nhỏ hơn) công suất đưa vào (hay lấy ra) từ khối quay; điều này cũng có nghĩa mức tăng (giảm) của tần số khỏi tần số định mức phản ánh mức dư thừa hay thiếu hụt năng lượng trong HTĐ. Mặt khác, tổng lượng quán tính trong hệ thống (tổng khối lượng của tất cả máy quay nối kết) tỷ lệ thuận với khả năng của một hệ thống hấp thụ các biến thiên trên các tải và của nguồn NLTT, và giá trị của độ lệch tần số tỷ lệ nghịch với tổng quán tính trong hệ thống. Vì lẽ đó, dễ dàng có nhận xét là một hệ thống với tổng lượng quán tính quay thấp bản chất sẽ đồng nghĩa với việc dễ dàng bị ảnh hưởng nhiều hơn do các nhiễu loạn, và khi đó độ lệch tần số sẽ có biên độ lớn hơn. Một yếu tố quan trọng khác quyết định hành vi động học của các HTĐ hiện hữu là moment đồng bộ hóa hình thành bởi các MPĐB. Moment đồng bộ hóa cùng với quán tính quay có vai trò quyết định trong việc xác định đáp ứng ban đầu của tốc độ rôto MPĐB, ngay sau một sự cố xảy ra trên lưới điện. Thông qua thành phần moment đồng bộ hóa TSYN (synchronizing torque) (tỉ lệ với góc rôto δb của MPĐB) và thành phần moment cản dịu TD (damping torque) (tỉ lệ với vận tốc góc rôto dδb/dt của MPĐB) của moment điện từ TE, công suất tác dụng bơm vào HTĐ bởi MPĐB sẽ có tác dụng duy trì tính đồng bộ và làm tắt dần các dao dộng cơ học trong hệ thống. Hình 3 trình bày mô hình đơn giản của MPĐB G tại bus điện áp Vs nối kết qua đường dây với điện kháng jXe với bus điện áp Vb của lưới điện công suất vô cùng lớn. Phương trình vi phân mô tả hành vi động học của góc rôto δb, trong điều kiện ổn định góc nhỏ cho bởi [1] phương trình vi phân như sau: Hình 3. MPĐB G nối kết qua đường dây với lưới điện vô cùng lớn BẢN TIN HỘI ĐIỆN LỰC MIỀN NAM - THÁNG 6 / 20206 Từ quan hệ gia tốc và tổng moment (TM+ TE) tác động vào khối quay, với TE= TSYNC+TD (1) Trong điều kiện các dao động nhỏ góc rôto Δδb quanh điểm cân bằng δbo , phương trình trên thành: (2) (3) Với toán tử p= d/dt, δb= δbo + Δδb, TE= TE+ ΔTE, TM= TM+ ΔTM M = 2H ωb = 2πfb ΔTE = K1Δδb + ΔTM = K1Δδb δb, góc rôto, là góc lệch giữa trục dọc d của cực từ rôto và trục dọc d của cực từ trường quay của dây quấn stato fb, tần số lưới điện t, thời gian TM, moment cơ học (đơn vị tương đối) TE, moment điện từ (đơn vị tương đối) H, quán tính của khối quay, bao gồm quán tính quay của rôto MPĐB và của rôto động cơ sơ cấp K1, hệ số moment đồng bộ hóa D, hệ số moment cản dịu Hình 4 mô tả quá trình dao động nhỏ của góc rôto MPĐB sau tác động của nhiễu loạn biên độ nhỏ do sự cố trên lưới điện. Trong tình huống hệ thống ổn định, góc rôto quay về giá trị góc của rôto trước sự cố, và trong tình huống hệ thống mất ổn định góc rôto tăng dần. Hình 5 mô tả tình huống hệ thống không ổn định, góc rôto dao động với biên độ tăng dần và cuối cùng rôto rơi vào trạng thái mất bước (machine looses step), nói cách khác MPĐB mất đồng bộ hoàn toàn (pull out of synchronism). Hình 6 cho thấy quá trình dao động của góc rôto MPĐB sau tác động nhiễu loạn khi có sự cố nghiêm trọng trên lưới điện. Trong tình huống hệ thống ổn định Hình 6.(a), góc rôto sẽ có giá trị ổn định mới, sau các dao động khá lớn với biên độ tắt dần, và trong một tình huống tồi tệ khác trên Hình 6.(b) góc rôto có dao động biên độ giảm sau vài dao động, nhưng rồi lại tăng mạnh sau đó, khiến hệ thống rơi vào trạng thái mất ổn định. d2 δb dt2 D (d(Δδb)) ωb dt Hình 4. Dao động nhỏ của góc rôto MPĐB trong điều kiện làm việc ổn định và mất ổn định sau nhiễu loạn trên hệ thống Hình 5. Hệ thống không ổn định, góc rôto dao động với biên độ tăng dần và MPĐB mất đồng bộ BẢN TIN HỘI ĐIỆN LỰC MIỀN NAM - THÁNG 6 / 2020 7 Có thể nói rằng trong HTĐ hiện hữu, chính là nhờ vào quán tính quay lớn, cùng khả năng moment đồng bộ hóa cao, cùng các bộ điều khiển tác động nhanh đã giúp giảm thiểu các tác động tiêu cực bất cứ khi nào trong hệ thống xuất hiện sự mất cân bằng về công suất phát và công suất phụ tải (công suất tác dụng và phản kháng). Rõ ràng, đặc tính quan trọng và là bản chất của các HTĐ hiện hữu sẽ bị ảnh hưởng rất lớn và thay đổi nghiêm trọng một khi mức xâm nhập của NLTT với công nghệ MPBT vào HTĐ tăng dần. Ngược lại, công nghệ sản xuất điện năng từ NLTT về cơ bản sử dụng các công nghệ hoàn toàn khác biệt, trong việc biến đổi năng lượng và đấu nối với lưới điện. Qua trung gian MPBT các nguồn NLTT được đấu nối với vào HTĐ. Rất khác với các MPĐB truyền thống, MPBT với công nghệ vật liệu bán dẫn, hoàn toàn không có các cơ phận quay, biến đổi dòng dc thành ac và quản lí dòng công suất qua việc điều khiển các khóa đóng cắt bán dẫn theo thời gian. Do đó, dễ thấy về bản chất vật lí MPBT hoàn toàn khác với các hiện tượng vật lí mô tả ở máy điện quay như trên. Trong công nghệ MPĐ NLG kiểu nguồn kép DFIG (Doubly Fed Induction Generator) loại Hình 6. Quá trình dao động của góc rôto MPĐB sau tác động nhiễu loạn khi có sự cố nghiêm trọng trên lưới điện. III, với dây quấn roto nối với lưới qua các vành trượt và MPBT. MPĐ NLG kiểu MPĐB (Full- Size Synchronous Generator) loại IV biến đổi toàn bộ công suất phát từ ac thành dc, và sau đó từ dc thành ac với điện áp và tần số phù hợp để đấu nối với lưới điện. Năng lượng điện dc sản xuất từ NMĐ MT thông qua MPBT để chuyển đổi dc thành ac với điện áp và tần số phù hợp để đấu nối với lưới điện. Trong lưới điện tương lai với mức xâm nhập NLTT cao, các nhà máy tích trữ năng lượng (với công nghệ acqui, pin nhiên liệu), với vai trò cân bằng năng lượng trong HTĐ, cũng sử dụng MPBT để đấu nối với lưới điện. Vì thế, trong bất cứ hệ thống NMĐ NLTT nào có sử dụng MPBT, luôn cần đến bộ điều khiển vòng kín để điều chỉnh dòng công suất từ nguồn phát dc, thông qua kĩ thuật biến đổi điện tử công suất để đấu nối với lưới điện. Trong các bộ điều khiển số các đo lường theo thời gian thực được xử lí và các chương trình điều khiển được lập trình và thực thi theo yêu cầu của người vận hành. Điều quan trọng nhất trong các bộ điều khiển này là đặc tính các chiến lược điều khiển, chứ không phải bản chất vật lí của MPBT, sẽ quyết định tính chất động học của MPBT khi có sự cố và cách thức MPBT sẽ đáp ứng với lưới điện ac. Nói một cách khác, đáp ứng vật lí của MPBT hoàn toàn được quyết định bởi chương trình điều khiển được lập trình. Điều này vô cùng khác biệt với các MPĐB, trong đó bản chất vật lí của máy, như quán tính của các bộ phận quay, các thông số điện từ sẽ quyết định các đặc tính quá độ của chúng. Để làm rõ sự khác biệt cơ bản giữa MPĐB và MPBT, thường dùng thuật ngữ thiết bị không quán tính (zero-inertia machine) cho MPBT, do đáp ứng của chúng hoàn toàn phụ thuộc vào chiến lược của chương trình điều khiển và không có bất kì bộ phận quay nào. Nhìn chung, phân loại bộ điều khiển MPBT theo: bộ điều khiển bám theo lưới (grid following inverter controller) hoặc bộ điều khiển tạo lưới (grid forming inverter controller). Các bộ điều khiển bám theo lưới hiện là loại BẢN TIN HỘI ĐIỆN LỰC MIỀN NAM - THÁNG 6 / 20208 phổ biến nhất hiện nay, phổ biến trong các MPBT quang điện và MBT điện gió. Các bộ điều khiển chủ yếu dùng mạch vòng khóa pha (phase-locked loop) để ước lượng góc pha tức thời của điện lưới hình sin tại điểm đấu nối của MPBT với lưới điện. Sau đó, mạch sẽ tạo ra và bơm một dòngđược điều khiển vào lưới, với tính chất dòng này bám theo điện áp lưới. Bản chất của MPBT với bộ điều khiển bám theo lưới là làm việc như một nguồn dòng và “bám theo” điện áp tại đểm đấu nối. Hạn chế của MPBT với bộ điều khiển kiểu này là dựa trên giả định điện áp ac tại điểm đấu nối có biên độ và tần số không đổi (cứng, stiff ac voltage). Trong thực tế, điều này cũng có nghĩa xem toàn bộ đáp ứng của hệ thống, các MPĐB, các bộ điều khiển đi kèm, các thiết bị điều chỉnh trên lưới làm việc trong điều kiện điện áp và tần số thương đối ổn định tại bất kí điểm nút nào trong lưới. Trên Hình 7 có thể thấy giả thiết này tương đối hợp lí đến nay, vì thực tế các công suất các NMĐ NLTT với MPBT theo kiểu điều khiển bám theo vẫn còn tương đối nhỏ so với công suất của các MPĐB, mà hiện nay đang đóng vai trò chính trong điều khiển điện áp và tần số của HTĐ hiện hữu. Tuy nhiên, tình hình sẽ thay đổi ra sao khi trong HTĐ mức xâm nhập của NMĐ NLTT ngày càng cao, với số lượng MPBT ngày càng nhiều trong lưới điện tương lai? Khi đó, HTĐ tương lai làm việc chủ yếu với MPBT với đặc tính không quán tính và sử dụng bộ điều khiển bám theo lưới, và MPBT này làm việc như nguồn dòng và bám theo điện áp lưới. Rõ ràng, lưới điện tương lai khó có thể làm việc bình thường được trong điều kiện với các MPBT kiểu điều khiển bám theo lưới. Nhằm khắc phục nhược điểm trên, một thế hệ biến tần mới loại điều khiển tạo lưới dần được phát triển để thích ứng làm việc với hạ tầng điện sử dụng MBT, với khả năng điều chỉnh điện áp và tần số qua việc điều khiển phi tập trung và tại chỗ (local de-centralized control). Trước khi xem xét các đặc tính cần có của thế hệ biến tần mới này, cần xem xét các thách thức kĩ thuật phải giải quyết. Đầu tiên , MBT thế hệ mới này sẽ dần được đưa vào làm việc trên lưới điện, cùng với việc tỉ lệ NLTT xâm nhập ngày càng cao vào lưới điện trong nhiều năm, nhiều thập kỉ tới, song song với việc thay thế dần các MPĐB. Ngoài ra, do các MPBT có phạm vi công suất định mức nhỏ hơn nhiều lần so với các MPĐB, điều này có nghĩa phụ tải trong hạ tầng mới của lưới điện làm việc với MBT cần làm việc với số lượng MPBT rất lớn trong lưới điện. Đối với các lưới điện lớn, Hình 7. Tình hình của lưới điện hiện nay (bên trái) chủ yếu làm việc với MPĐB với quán tính quay trong hệ thống rất lớn, và lưới điện tương lai (bên phải) khi mức xâm nhập của NLTT ngày càng cao, khi đó các MPĐB dần được thay thế và HTĐ sẽ chủ yếu làm việc với MPBT. BẢN TIN HỘI ĐIỆN LỰC MIỀN NAM - THÁNG 6 / 2020 9 điều này cũng có nghĩa số lượng có thể lên đến hàng triệu các MPBT sẽ được vận hành trong một phạm vi địa lí rộng lớn. Xét đến các đặc điểm trên, các bộ điều khiển tạo lưới phải có các đặc tính sau: - Khả năng tương thích với HTĐ hiện hữu và liền mạch với HTĐ phát triển dần trong tương lai theo Hình 2. - Do hệ thống vận hành với tập hợp từ rất nhiều MPBT được phân bố phân tán trên các địa lí rộng lớn cần sử dụng phương án điều khiển phân tán, và việc điều khiển nhanh theo thời gian không cần đến kĩ thuật truyền thông. - Khả năng làm việc tin cậy, lâu dài trong một tương lai mà MPĐB có thể sẽ không còn hiện diện trong HTĐ. - Khả năng bảo đảm chất lượng điện, ngoài việc điều khiển công suất tác dụng và phản kháng. Để thực hiện được các mục tiêu trên một phương cách khả thi là điều khiển dộ dốc (droop control) tương tự như điều khiển MPĐB bằng cách lập trình mối quan hệ tuyến tính giữa công suất tác dụng, công suất phản kháng theo giá trị tần số và điện áp. Tuy vậy, do việc tính toán tương đối chậm các giá trị công suất tác dụng, công suất phản kháng, các MPBT điều khiển độ dốc (droop-controlled inverters) có nhược điểm là đáp ứng chậm trong các quá độ. Hiện nay, đang phát triển các phương pháp điều khiển với tên gọi máy đồng bộ ảo hay máy quán tính ảo (virtual synchronous, virtual inertia machines) với khả năng mô phỏng các hiện tượng vật lí của các MPĐB./ TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. T.A. Lipo,” Analysis of Synchronous Machines”, CRC Press, Second Edition 2012, ISBN-13: 978-1439880678, ISBN-10: 1439880670. [2]. Benjamin Kroposki, Brian Johnson, Yingchen Zhang, Vahan Gevorgian, Paul Denholm, Bri-Mathias Hodge, and Bryan Hannegan, “Achieving A 100% Renewable Grid- Operating Electric Power Systems with Extremely High Levels of Variable Renewable Energy”, IEEE Power& Energy Magazine, Mar/ Ar 2017, pp. 61- 73. [3]. Jan von Appen, Martin Braun, Thomas Stetz, Konrad Diwold, and Dominik Geibel, “Time in the Sun The Challenge of High PV Penetration in the German Electric Grid”, IEEE Power& Energy Magazine, Mar/Apr 2013, pp. 55- 64. [4]. M. M. Hand, S. Baldwin, E. DeMeo, J. Reilly, T. Mai, D. Arent, G. Porro, M. Meshek, and D. Sandor, “Renewable Electricity Futures Study”, NREL, Golden, CO, Tech. Rep., NREL/TP-6A20-52409, June 2012. [5]. P. Denholm and R. Margolis, “Energy Storage Requirements for Achieving 50% Solar Photovoltaic Energy Penetration in California” , NREL, Golden, CO, NREL/TP-6A20-66595, Aug. 2016. [6]. J. Taylor, S. Dhople, and D. Calloway, “Power Systems without Fuel,” Renew. Sustain. Energy Rev., vol. 57, pp. 1322–1336, May 2016. [7]. J. O’Sullivan, Y. Coughlan, S. Rourke, and N. Kamaluddin, “Achieving The Highest Levels of Wind Integration: A System Operators Perspective”, IEEE Trans. Sustain. Energy, vol. 3, no. 4, pp. 819–825, Oct. 2012. [8]. V. Gevorgian, Y. Zhang, and E. Ela, “Investigating The Impacts of Wind Generation Participation in Interconnection Frequency Response”, IEEE Trans. Sustain. Energy, vol. 6, no. 3, pp. 1004–1012, July 2015. [9]. D. Ramasubramanian, V. Vittal, and J. Undrill, “Transient Stability Analysis of An All Converter Interfaced Generation WECC System” , Proc. Power System Computation Conf., Genoa, Italy, 2016. [10]. Nguyễn Hữu Phúc, “Tác Động của Mức Xâm Nhập Cao của các Nhà Máy Điện Mặt Trời Kĩ Thuật Quang Điện lên Lưới Điện- Phần 01”, Bản Tin Hội Điện Lực Miền Nam SEEA, Số 26 (10.2019), pp. 01-07. [11]. Nguyễn Hữu Phúc, “Tác Động của Mức Xâm Nhập Cao của các Nhà Máy Điện Mặt Trời Kĩ Thuật Quang Điện lên Lưới Điện- Phần 02”, Bản Tin Hội Điện Lực Miền Nam SEEA, Số 27 (01.2020), pp. 08-15.
File đính kèm:
- van_hanh_he_thong_dien_voi_do_xam_nhap_cao_cua_nang_luong_ta.pdf