Vai trò của Trung tâm học liệu trường Đại học Cần Thơ đối với hoạt động tự học của sinh viên
TÓM TẮT
Tự học trong giáo dục đại học về mặt chuyển giao kiến thức, các kĩ năng
và nâng cao khả năng tự học, góp phần cải tiến về kết quả học tập của
người học ngày càng gia tăng. Nền kinh tế phát triển tạo ra những nhu
cầu xã hội khác nhau với những yêu cầu về năng lực, phẩm chất và kiến
thức. Vì thế, việc giúp sinh viên (SV) trở nên năng động và sáng tạo trong
học tập và làm việc là cần thiết. Nghiên cứu về việc sử dụng thư viện nâng
cao được khả năng tự học đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ
mục tiêu giáo dục của nhà trường trong lĩnh vực học tập, nghiên cứu.
Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát 300 SV (150 SV năm 1 và năm 2; 150
SV năm 3 và 4), tại Trung tâm Học liệu, Trường Đại học Cần Thơ từ tháng
2 đến tháng 4 năm 2018, nhằm trả lời cho hai câu hỏi nghiên cứu: SV
nhận thức như thế nào về tầm quan trọng của tự học đối với hoạt động
học tập, nghiên cứu? Vai trò của thư viện với hoạt động tự học của SV?
Kết quả nghiên cứu cho thấy SV có thái độ tích cực về hoạt động tự học
thông qua việc sử dụng thư viện thường xuyên và dành thời gian tự học
tập trung vào mùa thi.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của Trung tâm học liệu trường Đại học Cần Thơ đối với hoạt động tự học của sinh viên
27,2%; thiếu tài liệu: 18,3%; không thích các môn đang học: 9,9%; khó nhớ các nội dung, hình ảnh, số liệu 19,9%). (Nhóm 2: không có nhiều động lực: 38,7%; không tập trung: 31,9%; thiếu tài liệu: 14,1%; không thích các môn đang học: 4,0%; khó nhớ các nội dung, hình ảnh, số liệu 11,3%). Trong hoạt động dạy và học, người học luôn giữ vai trò trung tâm. GV với vai trò là người hướng dẫn, khơi gợi niềm hứng thú say mê học tập cho người học.Đồng thời là người bồi đắp, định hướng, rèn luyện phát triển năng lực cho người học, trong đó có năng lực tự học. Ở câu hỏi 9, các em cho rằng GV chỉ thỉnh thoảng hướng dẫn các em phương pháp tự học (nhóm 1 là 63,3%; nhóm 2 là 53,3%). Đó cũng là khó khăn mà người học cũng thường gặp phải khi không có người hướng dẫn để họ xác định vấn đề trọng tâm, họ cần phải làm gì, làm sao hoạt động tự học hiệu quả. Vai trò của GV trong việc hướng dẫn SV tự học vô cùng quan trọng.GV hướng dẫn SV xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch tự học là hết sức cần thiết. Câu hỏi 10, nhóm nghiên cứu muốn tìm hiểu xem GV trong quá trình dạy học đã hướng dẫn người học lập kế hoạch học tập như thế nào. Kết quả cho thấy nhóm 1 thỉnh thoảng là 45,3%, hiếm khi là 22,0%, nhóm 2 thỉnh thoảng là 34,0%, hiếm khi là 32,0%. Ở bậc đại học, việc tự học rất quan trọng. Tự học vừa giúp SV nắm vững kiến thức vừa tạo sự hứng thú, niềm say mê khám phá, khơi gợi sự sáng tạo. SV cần lập kế hoạch cho hoạt động của bản thân. Điều này, góp phần tích cực cho việc hình thành năng lực tự học, cho hoạt động học tập suốt đời. Kết quả khảo sát cho thấy, SV thường lập kế hoạch học tập dựa vào kinh nghiệm bản thân thể hiện qua câu hỏi 11, nhóm 1 (31,4%), nhóm 2 (34,1%). Qua khảo sát câu hỏi 12, GV không thường xuyên kiểm tra, đánh giá việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp của SV, nhóm 1 là 58,0% và nhóm 2 không thường xuyên là 43,6%. Trong hoạt động tự học, người học cần phải xây dựng kế hoạch học tập. Kế hoạch học tập khoa học là cách tốt để họ tự học hiệu quả. Nhưng họ thường lập kế hoạch tự học chủ yếu dựa vào kinh nghiệm bản thân. Đôi lúc họ gặp khó khăn như thiếu động lực, thiếu tập trung, chưa có cái nhìn bao quát về những kiến thức cần và đủ. Tuy nhiên, SV luôn có ý thức tự học. Họ cũng hiểu kiến thức trên lớp chỉ là khởi đầu. Với thời lượng giờ học trên giảng đường thì GV không thể nào truyền tải hết nội dung. Vì vậy, họ cần tự học để trang bị thêm kiến thức, kỹ năng, năng lực phù hợp để sau này ứng dụng vào công việc ở tương lai. Câu hỏi 13, tìm hiểu xem các em đánh giá thế nào về hoạt động tự học của các bạn SV xung quanh, các em cho rằng, việc tự học các bạn vẫn chưa cao, mức độ trung bình, nhóm 1 chiếm (74,0%), nhóm 2 (54,4%). Ở câu hỏi 14, SV khẳng định việc tự học là rất quan trọng, nhóm 1 là 55,4%, quan trọng là 40,5%; nhóm 2 rất quan trọng là 52,1%, quan trọng là 43,1%. Nhóm 1 và nhóm 2 đã trình bày những lợi ích của việc tự học và phương pháp tự học hiệu quả ở câu hỏi 15 và câu hỏi 16. Cụ thể như SV1 cho rằng: “Tự học giúp người học chủ động thu thập lượng kiến thức cần thiết trong quá trình học tập. Tự học tạo được tính chủ động trong học tập và cuộc sống, quản lý thời gian hữu hiệu”, SV2 nhấn mạnh: “Với phương pháp tự học, SV xác định được vấn đề cần thiết, vấn đề nào cần học trước, vấn đề nào học sau. SV thường tự học các môn trọng tâm vì không đủ thời gian để học tất cả các môn. Tự học giúp SV tìm hiểu sâu các vấn đề mà GV chưa truyền tải hết trên lớp. Ngoài ra, tự học giúp SV xác định được lượng thời gian dư và phân bổ thời gian hợp lý”. Kết quả nghiên cứu về nhận thức của SV đối với việc tự học cho thấy, SV xác định được tầm quan trọng của việc tự học đối với việc học tập, nghiên cứu. Tự học giúp họ củng cố kiến thức đã học, hình thành niềm say mê, hứng thú trong học tập, tìm tòi, khám phá và xây dựng kiến thức mới. Tự học ở bậc đại học là vô cùng cần thiết, để họ hình thành thành kĩ năng, phẩm chất, kiến thức cần thiết cho cuộc sống và công việc sau này. SV nhóm 1 và SV nhóm 2, đều có nhận thức tích cực về hoạt động tự học. Mặc dù, mức độ tự học của họ thường xuyên chưa cao, thường tập trung vào mùa thi. Đôi lúc họ cũng còn gặp khó khăn trong hoạt động tự học. Nhưng SV nhận thức rất tích cực với việc tự học và họ xác định tự học thật sự cần thiết trong quá trình tích lũy kiến thức tại nhà trường và cả sau này. Tự học đối với nhiều người phương pháp tốt để học tập và kiểm tra kiến thức, cơ hội để khám phá kiến thức học thuật.Tự học luôn có sự tương tác giữa kiến thức và thực tiễn, nó trở nên hấp dẫn hơn. Những hữu ích của tự học, tiếp cận được thông tin từ người khác, hình thành người học thói quen sử dụng thư viện, trang bị kiến thức tốt cho hoạt động học tập và công việc tương lai. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 55, Số 1C (2019): 66-73 72 5.2 Vai trò của thư viện với hoạt động tự học của SV 5.2.1 Nguồn tài liệu và môi trường thư viện đáp ứng tốt nhu cầu tự học Giáo dục lấy người học làm trung tâm là xu hướng tất yếu của thời đại. Người học là người chủ động khám phá, đào sâu kiến thức. Tự học chính là một trong những biện pháp tích cực để người học tiếp cận kiến thức mới. Thư viện là môi trường học thuật lý tưởng để SV khám phá tri thức đó. Câu hỏi 17, cho thấy nhóm 1 (51,7%) và nhóm 2 (66,0%) chọn thư viện là nơi thường xuyên đến. Trong kỷ nguyên bùng nổ thông tin như ngày nay, có rất nhiều tài nguyên hỗ trợ cho hoạt động tự học, nhưng nguồn tài nguyên tại TTHL vẫn được SV ưu tiên lựa chọn, kết quả nhóm 1 là 51,7%, nhóm 2 là 66% qua câu hỏi 18. Họ đồng ý rằng, thư viện có nhiều nguồn tài liệu đáp ứng được nhu cầu tự học qua câu hỏi 19. Tiếp theo với câu hỏi 20, nguồn tài liệu in ấn tại TTHL được nhiều SV lựa chọn (nhóm 1 là 70,7%), (nhóm 2 là 68,0%). Ở câu hỏi 21, SV đánh giá không gian học tập tại TTHL rất tốt, SV đồng ý đó là môi trường lý tưởng cho hoạt động tự học (nhóm 1 là 69,3), (nhóm 2 là 77,3%). 5.2.2 Vai trò của cán bộ thư viện hỗ trợ hoạt động tự học Ngày nay, nguồn thông tin ngày càng đa dạng, phong phú. Nhu cầu người sử dụng luôn thay đổi. Cán bộ thư viện phải là người am hiểu sâu về cách tìm kiếm, đánh giá, chọn lọc thông tin để có những định hướng hữu ích cho người sử dụng. SV khi đến thư viện, sử dụng các nguồn tài liệu và qua sự hướng dẫn của cán bộ thư viện, họ thể hiện sự hài lòng về tính chuyên nghiệp và sự thân thiện của cán bộ thư viện ở câu hỏi 22, nhóm 1 mức độ tốt là 64,0%, nhóm 2 tốt là 59,3%. Hình thức thư viện hỗ trợ hoạt động tự học cho người sử dụng rất đa dạng, người sử dụng có thể tiếp cận bằng nhiều kênh thông tin khác nhau, câu hỏi 23, nhóm 1 trả lời trực tiếp (38,3%), hướng dẫn đầu khóa (44,0%), tờ rơi hướng dẫn (0,7%), email (16,0%), chat 1,3%); nhóm 2 trả lời trực tiếp (50,0%), hướng dẫn đầu khóa (38,7%), tờ rơi hướng dẫn 2,0%, email là 6,0%, chat 3,3%. Với câu hỏi tự luận, SV nhìn nhận về vai trò của thư viện với hoạt động tự học của SV. Cụ thể SV1 cho rằng: “Thư viện có nhiều tài liệu, khi cần có thể dễ dàng tìm kiếm. Thư viện có không gian học rộng và mát mẻ, có nhiều người học nên cảm thấy hứng thú hơn cho hoạt động tự học. Học ở nhà dễ bị xao lãng chuyện khác, không tập trung như học ở thư viện. Ở thư viện, khi gặp khó khăn về tìm tài liệu, có thể nhờ cán bộ thư viện giúp. Ngoài ra, có rất nhiều sách, tạp chí để đọc tham khảo hơn ở nhà”. SV2 cũng đồng ý rằng: “Thư viện có phòng học nhóm, rất thuận lợi cho hoạt động thảo luận nhóm, tập thuyết trình trước khi báo cáo, nên rất hứng thú”. Tiếp theo câu hỏi 25, thư viện cần làm gì để hỗ trợ đối với hoạt động tự học của SV. SV1 đề xuất: “Thư viện cần có không gian tự học yên tĩnh, tách biệt dành cho SV năm cuối giống như khu vực dành cho học viên sau đại học và nghiên cứu sinh”. Theo SV2, thì: “Thư viện cần thường xuyên cập nhật các tài liệu chuyên ngành để hỗ trợ tốt cho SV khi làm luận văn tốt nghiệp”. Từ kết quả khảo sát trên cho thấy rằng, SV có ý thức tích cực trong việc tự học. Tự học đối với nhiều người là phương pháp tốt để học tập, tự kiểm tra, đánh giá, là cơ hội để khám phá kiến thức học thuật.Tự học luôn có sự tương tác giữa kiến thức và thực tiễn, vì vậy nó trở nên hấp dẫn hơn. Thư viện là nơi được sinh viên ưu tiên lựa chọn cho hoạt động tự học của mình.Thư viện là nơi lưu trữ nhiều nguồn tài liệu đa ngành, đa lĩnh vực với nhiều loại hình tài liệu khác nhau.Thư viện là nơi lý tưởng với hoạt động tự học.Người học khi thấy hứng thú với hoạt động học tập thì sẽ học hiệu quả hơn. Họ sẽ dễ dàng vượt qua khó khăn để tự học thành công. Kết quả phỏng vấn, cán bộ thư viện đều cho rằng thư viện có vai trò rất quan trọng trong hoạt động hỗ trợ việc tự học của SV trong nhà trường. Giáo dục đại học rất chú trọng phát huy vai trò của người học. Người học phải dành nhiều thời gian để nghiên cứu và tham khảo tài liệu cho từng môn học. Vì vậy, thư viện đại học là nơi được nhiều SV lựa chọn cho hoạt động tự học. Cán bộ thư viện 1 khẳng định: “Thư viện có nguồn tài liệu phong phú đáp ứng khá tốt nhu cầu người học. Ngoài ra, cán bộ thư viện có sự am hiểu tốt về kỹ năng tìm kiếm thông tin, dễ dàng giúp người học tìm tài liệu phù hợp với nhu cầu”. Cán bộ thư viện 2 cho rằng:“Thư viện đại học là một bộ phận quan trọng giúp nhà trường hoàn thành mục tiêu giáo dục, phát triển năng lực cho người học trong đó có năng lực tự học”. Theo cán bộ thư viện 3 thì: “Thư viện là giảng đường thứ hai giúp sinh viên củng cố, nâng cao kiến thức qua con đường tự học và cán bộ thư viện là người hỗ trợ tích cực cho SV trong hoạt động tự học tại thư viện”. Kết quả phỏng vấn, SV1 họ cũng đồng ý cho rằng: “Thư viện là nơi lý tưởng có thể tập trung tự học cao”, SV2 nhấn mạnh: “Ở thư viện không gian học tập rất tốt, có thể chọn cho mình chỗ học phù hợp, khu học ngồi bệt, khu vực học cá nhân, khu vực học yên tĩnh hay phòng thảo luận nhóm”. Thư viện ngày nay rất chú trọng phát triển các nguồn tài nguyên học thuật, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người sử dụng. Người học dễ dàng tiếp cận nhanh chóng các nguồn thông tin, sự hướng dẫn chuyên nghiệp của cán bộ thư viện. Điều này, hỗ trợ tích cực cho việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên được hiệu quả hơn. Kết quả nghiên cứu này một lần Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 55, Số 1C (2019): 66-73 73 nữa khẳng định vai trò của thư viện đối với bạn đọc giống như các nghiên cứu trước đây. Cụ thể như Habib et al.(2017, tr.164): “Thư viện và trung tâm thông tin là một phần không thể tách rời của các tổ chức truyền đạt kiến thức để hỗ trợ các chức năng chính của họ. Thư viện hỗ trợ cho người học tìm kiếm, sử dụng thông tin thích hợp, giúp quá trình tự học được diễn ra thuận lợi và cơ hội học tập suốt đời”. Hoạt động thư viện là sự cộng tác phức tạp giữa cán bộ thư viện và người sử dụng. Sự gia tăng số lượng người sử dụng thư viện, cùng sự phát triển của công nghệ thông tin đã tạo ra những nhu cầu phức tạp của người sử dụng. Thư viện không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng nguồn tài liệu, dịch vụ và trình độ chuyên môn, góp phần hỗ trợ SV tự học và đạt kết quả tốt hơn. 6 KẾT LUẬN Tự học là một trong những năng lực rất cần thiết theo xu hướng giáo dục ngày nay. Người học cần “tự học” để củng cố, phát triển và đào sâu thêm kiến thức ngoài kiến thức thu nhận được từ sự hướng dẫn của GV. SV đã có những nhận thức tích cực về việc “tự học” trong học tập. Họ chủ động xây dựng kế hoạch tự học, xác định vấn đề tự học, hình thức tự học, thời gian tự học mỗi ngày và tập trung cao điểm vào mùa thi. Thư viện được SV ưu tiên lựa chọn cho hoạt động “tự học”. Thư viện thường xuyên bổ sung nguồn tài liệu mới, đáp ứng tốt với từng chuyên ngành đào tạo của trường và nhu cầu người đọc. Mặt khác, thư viện tạo môi trường thân thiện, không gian học tập lý tưởng cho SV. Cán bộ thư viện nhận thức được vai trò hỗ trợ tích cực cho SV với hoạt động tự học. Họ như là những chuyên gia thông tin, hỗ trợ tốt cho người đọc tìm kiếm, khai thác các nguồn tài liệu in ấn và điện tử của thư viện phục vụ cho hoạt động học tập, nghiên cứu một cách hiệu quả nhất. Thư viện đại học không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng nguồn tài nguyên thông tin và cung cấp các dịch vụ thông tin dưới nhiều hình thức khác nhau cho SV, giảng viên, nhà nghiên cứu trong hoạt động tự học, góp phần hình thành người học thói quen sử dụng thư viện và hoạt động tự học suốt đời. TÀI LIỆU THAM KHẢO Lê Quỳnh Chi, 2008. Thư viện đại học góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Tạp chí Thư viện Việt Nam. 2:18-23. Nguyễn Hồng Nam và Dương Hồng Hiếu, 2016. Giáo trình phương pháp dạy đọc hiểu văn bản. Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ. Thành phố Cần Thơ, 194 pages. Trịnh Quốc Lập, 2008. Phát triển năng lực tự học trong hoàn cảnh của Việt Nam. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ.10: 169–175. Thủ Tướng Chính Phủ, 2012. Quyết định số 711/QĐ-Ttg, ngày 13 tháng 6 năm 2012 phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2011- 2020” ngày truy cập 22/5/2018. Địa chỉ https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Giao- duc/Quyet-dinh-711-QD-TTg-nam-2012-Chien- luoc-phat-trien-giao-duc-2011-2020- 141203.aspx Aliyu, I. A., and Joseph, M. M., 2017. The role of academic libraries in the accreditation of undergraduate programmes: a case study of federal University of technology Minna, Niger State. Library Philosophy and Practice. 1-36. Gard Marshall, J., Craft Morgan, J., Thompson, C.,A., and Wells, A.,L., 2014. Library and information services: Impact on patient care quality. International Journal of Health Care Quality Assurance, 27(8): 672-683. Harris, M. R., 2005. The librarian's roles in the systematic review process: A case study*. Journal of the Medical Library Association, 93(1): 81-87. Habib-ur-Rehman, H., Idrees, H., and Ullah, A., 2017. Organization and usage of information resources at deeni madaris libraries in pakistan. Library Review, 66(3): 163-178. Khan, G., and Bhatti, R., 2015. Determinants of academic law libraries' use, collections, and services among the faculty members: A case study of university of peshawar. Collection Building, 34 (4): 119-127. Krejcie, R. V., and Morgan, D. W.,1970. Determining sample size for research activities. Educational and Psychological Measurement, 30: 607–610. Oyewole, O., and Oladepo, T. J., 2017. Information needs and computer self efficacy as factors influencing use of electronic reference services by undergraduates in a Nigerian university. Library Philosophy and Practice. 1-31. Uzuebgu, C. P., and Onyekweodiri, N. E.,2011. The professional visibility of the Ngerian library association: A report of survey findings. Library Philosophy and Practice. 1-9.
File đính kèm:
- vai_tro_cua_trung_tam_hoc_lieu_truong_dai_hoc_can_tho_doi_vo.pdf