Triết lý nhân sinh của J.Krishnamurti và giá trị thực tiễn đối với việc giáo dục nhân văn cho con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Krishnamurti là một nhà triết học nhân sinh lớn của thế kỷ XX. Triết học của ông đặt ra những
vấn đề không chỉ là sự quan tâm của đương đại mà của mọi thời đại vì đó là những vấn đề muôn
thuở của con người như số phận, sự hiện hữu, sự siêu việt và sự tha hóa Theo ông, nguyên nhân
gây ra sự tha hóa của con người trong xã hội phương Tây hiện đại là do cái tôi có nhiều ham muốn
ích kỷ cá nhân. Ông đưa ra những giải pháp khuyên nhủ con người nên sống để thanh tẩy tâm hồn
cá nhân và xã hội như là “đời không tâm điểm“, “Sống là hiện tượng không thời gian, tri là không
suy niệm và hành động không chủ đích”. Thực chất đây là các giải pháp tâm linh, thiên về lay động,
đánh thức thế giới nội tâm, đánh thức sự tự ý thức của cá nhân trong cuộc nhân sinh. Tuy không phải
là cách làm mới trong lịch sử triết học và có phần duy tâm nhưng đóng góp quan trọng nhất của
Krishnamurti là ở chỗ chỉ ra được vấn đề đang nổi cộm trong đời sống của mỗi cá nhân cũng như
của xã hội hiện đại ngày nay.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Triết lý nhân sinh của J.Krishnamurti và giá trị thực tiễn đối với việc giáo dục nhân văn cho con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
i hình thức thống trị bằng quyền uy thế lực đối với kẻ khác để giải thoát linh hồn mình. Tiếp cận triết lý nhân sinh của Krishnamurt dù ở góc độ nào mà lấy sự vươn lên của con người trong sạch thanh cao thì đều đáng trân trọng. Có thể Đời không tâm điểm và hướng đi cho cuộc đời của Krishnamurti có cái nhìn thiên lệch về sự suy tôn những giá trị vốn có ban đầu và bị nhiều nhà triết học cho đó là duy tâm nhưng nếu duy tâm thông minh còn hơn duy vật mà thô thiển. Trên tinh thần của phép biện chứng duy vật, ta nên đãi cát tìm vàng trong triết lý nhân sinh của Krishnamurti những điểm hay, ý đúng để góp thêm một lời khuyên bổ ích cho con người có cách suy nghĩ và hành động phù hợp đừng làm tổn thương thế giới xung quanh thêm nữa. 2.3. Giá trị thực tiễn của tư tưởng nhân sinh của Krishnamurti trong việc giáo dục nhân văn đối với con người Việt Nam hôm nay Giải đáp những vấn đề về xã hội, về cuộc sống của con người, không phải bây giờ mới bàn tới mà các nhà triết học ngay từ thời cổ đại ở cả phương Đông và phương Tây đã đi tìm đường hướng cho nhân loại với mong muốn xây dựng một thế giới đại đồng, con người sống hòa mục với nhau như anh em một nhà, “tứ hải giai huynh đệ” Rất nhiều, rất nhiều nhà triết học dù đứng trên lập trường duy tâm hay duy vật, có cái nhìn biện chứng hay siêu hình về nhân sinh cũng đều cố gắng đưa ra cách giải quyết các vấn đề xã hội và con người với mong muốn hiệu quả nhất, triệt để nhất. Điểm chung này cho thấy các học thuyết triết học dù là cổ hay kim, đông hay tây, nhân sinh hay tôn giáo đều thấm đẫm tinh thần nhân văn. Nhưng dường như vấn đề nhân sinh của cả nhân loại, của từng dân tộc cũng như của mỗi cá nhân vẫn chưa giải quyết được tận cùng nguyên nhân của nó khi phương tây hiện đại bước vào giai đoạn kỹ trị và chủ nghĩa duy lý thống trị. Lấp lánh trên bầu trời triết học của phương Tây hiện đại thế kỷ XX là “hiện tượng Krishnamurti” “có phong cách nhân sinh mới” đã góp thêm một tiếng nói, một cách tiếp cận mới mang tính hướng nội để lý giải những điều bí ẩn trong mỗi con người mà ông ví nó cũng bí ẩn như vũ trụ bao la vậy. Triết lý của Krishnamurt tập trung bàn về sự giải thoát để cho tâm hồn con người trở nên thánh thiện trong cõi đời đầy cám dỗ và cạm bẫy. Cạm bẫy mà ông nói đến chính là toan tính cá nhân trong việc mưu cầu danh lợi sẽ đẩy con người đến sự tha hóa. Phương cách giải thoát của Krishnamurti khỏi sự tha hóa có ảnh hưởng nhất định trong các lĩnh vực khoa học, nghệ thuật, giáo dục, tâm lý học, thể thao Trong xã hội hiện đại, khi khoa học càng phát triển bao nhiêu thì vấn đề thế giới tâm linh càng bất ổn bấy nhiêu. Sự xuất hiện của Krishnamurti như là một sự cứu rỗi cho sự khủng hoảng đó. Krishnamurti không loại bỏ 50 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 40 (10-2019) khoa học mà chỉ tìm cách đưa con người thoát khỏi mê cung của sự sùng bái khoa học một cách thái quá. Vì vậy, triết lý nhân sinh của Krishnamurti trở thành nhịp cầu nối khoa học và tôn giáo. Cuộc đời và lời khuyên của ông đã có ảnh hưởng sâu sắc đến ý thức nhân loại ở nửa sau thế kỷ XX. Tư tưởng nhân sinh của Krishnamurti không chỉ hợp với giới trí thức, uyên bác, với người lớn tuổi từng trải có thời gian để chiêm nghiệm cuộc đời mà nó còn phù hợp với giới trẻ. Sinh thời, khi đi thuyết giảng cho học sinh, sinh viên của các trường học, ông luôn tạo ra một bầu không khí thoải mái, không sợ hãi, không kèn cựa, khuyến khích các em tự tìm về nội tâm, tìm hiểu về chính mình, thức tỉnh cảm quan của họ về cái đẹp của thiên nhiên, về sự cảm thông với những thống khổ của kiếp người, khuyến khích họ đi vào những đề tài sinh động, phức tạp nhất đó là hoạt động tâm não con người. Cả cuộc đời của ông kiên trì với lý tưởng “để cho mọi người được tự do, giải thoát vô điều kiện”. Chính vì vậy, lúc cuối đời, nhiều người trẻ ở Mỹ vẫn tìm đến ông như là tới ngồi dưới một tàng cây cổ thụ rủ bóng để ươm tẩm phần tâm hồn. Thiết nghĩ, việc nghiên cứu triết lý nhân sinh của Krishnamurti có ý nghĩa to lớn đối với việc giáo dục các giá trị đạo đức nhân văn cho người Việt Nam hôm nay đặc biệt là thế hệ trẻ. Bởi vì ông đã chỉ ra cho chúng ta biết một trong những nguyên nhân của vấn đề, nguồn gốc của mâu thuẫn và bạo lực đã tiềm ẩn ngay trong tâm con người ra sao. Giá trị thực tiễn của triết lý Krishnamuti là ở chỗ, ông không tặng chúng ta một cách giải quyết theo kiểu “mì ăn liền” những vấn đề của mỗi cá nhân cũng như của thời đại. Ông đã nhìn thấy những vấn đề được coi là triệu chứng của một chứng bệnh được xem là thâm căn, cố đế, nằm sâu trong tâm não của mỗi người chúng ta. Và ông nhắc nhở mọi người hãy nhìn vào nội tâm, dựa vào sức mạnh tinh thần của chính mình để tự giải thoát ra khỏi những xiềng xích tư tưởng rập khuôn của người khác, đừng bao giờ làm nô lệ cho bất cứ loại tư tưởng nào của bất cứ ai dù đó là người có thẩm quyền. Nên thanh lọc những ô nhiễm do bị những “thẩm quyền” nhồi nhét vào tâm não từ vô thủy. Bản thân ông cũng yêu cầu mọi người coi những lời nói của ông chỉ là lời tâm tình trò chuyện giữa những người bạn, không phải là lời của bậc thầy. Vì nếu coi ai đó là bậc thầy thì cái hào quang tiềm ẩn trong ý nghĩ về bậc thầy đã gián tiếp tước đoạt sự tự do của chính mình trên con đường đi tìm chân lý. Dẫu biết rằng cuộc sống luôn tiến về phía trước nên buộc mỗi người phải không ngừng nỗ lực phấn đấu để không bị bỏ lại phía sau.Trên hành trình mưu sinh để tồn tại và phát triển, con người đã ấp ủ nhiều ước mơ, nuôi dưỡng bao khát vọng với mong muốn chúng sớm trở thành hiện thực. Nhưng không phải ai cũng có ước mơ đẹp, nhu cầu chính đáng. Đâu đó, vẫn có những cá nhân quá tham lam, ích kỷ, chỉ muốn có được tất cả mọi thứ trên cuộc đời này và tìm mọi cách đê hèn, sử dụng nhiều công cụ vô nhân đạo, nhiều phương thức tàn bạo để đạt cho bằng được mục tiêu của cuộc đời về tiền tài, danh vọng, sự nghiệp, hôn nhân - gia đình, giá trị bản thân, quan hệ xã hội, địa vị xã hội... Thậm chí có những người bằng mọi cách, bằng mọi thủ đoạn, bất chấp đạo lý để sao cho nhanh nhất đạt được những mục tiêu của đời mình mà không bao giờ tự hỏi rằng có chính đáng và hợp pháp hay không. Họ dùng tiền, rất nhiều tiền để mua quan bán chức, để chạy chỗ, chạy tội, chạy chức, chạy quyền và sống sa đọa, trụy lạc trong khi rất nhiều người xung quanh còn đang đói khát, nghèo khổ, lam lũ. Nếu không được hoặc chưa được, họ sẽ cảm thấy đau khổ, dằn vặt và không bao giờ cảm thấy mình hạnh phúc rồi đổ cho số phận, đổ lỗi cho người khác, cho xã hội và từ đó có thái độ thù địch với những người xung quanh. Không thích hợp tác, không biết quan tâm, chia sẻ, không biết đồng cảm và sẵn sàng xung đột, đối đầu với tất cả khi cho rằng lợi ích cá nhân bị ảnh hưởng, bị xâm phạm. Một khi mù quáng chạy theo những lợi ích vật chất và tinh thần tầm thường, thực dụng, cá nhân đó đã đánh mất mình, tha hóa mình, trượt dài và trượt sâu vào vũng bùn của tội lỗi, tội ác mà không thể cứu vãn, không thể thoát ra. Chỉ còn một cách duy nhất trả giá cho sai lầm của mình 51 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 40 (10-2019) là hình phạt nghiêm khắc của pháp luật và sự lên án gay gắt của dư luận xã hội, sự phán xét, kết tội của tòa án lương tâm. Khó mà tìm được sự tha thứ, bao dung của cộng đồng xã hội. Đây là kết cục được báo trước cho tất cả những ai đã, đang và có ý định lựa chọn lối sống chỉ biết đề cao cái tôi, tuyên chiến với tất cả. Những kẻ như vậy trong xã hội đang ngày càng nhiều. Đây là mầm mống của sự xuống cấp, băng hoại về đạo đức, bất ổn về chính trị - xã hội, kết băng, lập đảng xã hội đen, hình thành thế giới tội phạm làm cho xã hội ngày càng trở nên bất an, bất ổn. Một nguyên nhân khách quan khác phải kể ra ở đây là do mặt trái của cơ chế thị trường đã làm cho sự phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội trên mọi mặt của đời sống xã hội ở nước ta càng trở nên sâu sắc, càng làm cho nhiều người bị tha hóa nhanh bởi chính cái tôi tham lam đã vượt ngưỡng của mình gây ra. Xã hội cũng vì thế mà ngày càng trở nên phức tạp và trở thành môi trường sống nguy hiểm, mất an toàn, đe dọa và luôn rình rập lấy đi cuộc sống an nhiên, hạnh phúc của mọi cá nhân bất cứ lúc nào. Đã đến lúc, hồi chuông cảnh báo về sự xuống cấp, suy thoái đạo đức, vi phạm pháp luật gióng lên liên hồi để thức tỉnh, kêu gọi mọi người hãy bình tâm, tĩnh trí nhìn lại mình để suy xét và chọn điểm dừng, dũng cảm và ngay lập tức từ bỏ những tham vọng quá đáng của mình để đổi lấy sự bình yên, quay về với cái ban đầu thiện lương, thiện lành, tử tế, không so đo hơn thiệt, không chạy theo mục tiêu viển vông, hão huyền, hư danh. Làm được như vậy, chúng ta đã tìm về với Krishnamurti, đã tự thanh lọc tâm hồn, đã giải thoát mình ra khỏi kiếp nô lệ của những cám dỗ vật chất tầm thường, của những toan tính đê hèn, của mọi nhục dục xấu xa và mọi thị phi để đổi lấy sự tự do tuyệt đối, hạnh phúc đích thực và niềm vui trọn vẹn. Làm được như vậy, mỗi cá nhân đã sống theo tinh thần của Krishnamurti, đã biết lựa chọn hướng đi cho cuộc đời của mình một cách thông minh, một sự hiện hữu khôn ngoan, bền vững trong bối cảnh xã hội đương đại có đầy rẫy những áp lực và sự cạnh tranh khốc liệt. Tóm lại, giá trị nhân văn lớn nhất của tư tưởng Krishnamurti là ở chỗ, ông nhìn thấy mặt trái của xã hội phương Tây hiện đại và phê phán xã hội từ phía hữu. Tuy chưa vượt qua được sự phê phán thuần túy trước đó nhưng vẫn được coi là một tiếng nói đáng trân trọng về thân phận con người và mở ra một hướng đi lên của con người trong cái sự đối lập của thời đại: “càng nhận thức xa về vũ trụ bao nhiêu càng biết ít về con người bấy nhiêu”. Cả cuộc đời Krishnamurti mong mỏi tìm kiếm một con đường mới để giải thoát con người trong xã hội hiện đại. Có thể điều ông nói chưa trở thành hiện thực, thậm chí mãi mãi chỉ là mơ ước nhưng ít ra Krishnamurti cũng tạo ra những giá trị tiền đề cần thiết để các thế hệ sau tiếp tục nghiên cứu và phát triển thêm để giải quyết những vấn đề bất cập do cách mạng 4.0 đẻ ra. Với ý nghĩa đó, thông điệp của bài báo này muốn gửi tới thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay là hãy cảm nhận, hãy học hỏi và làm theo sự chỉ dẫn, khuyên nhủ của Krishnamurti để lựa chọn cho mình một hướng đi đúng cho cuộc đời. Hy vọng sẽ tạo ra một thế hệ công dân mới, sống nhân văn, biết khao khát vươn lên, biết cống hiến cho xã hội nhiều cái đúng, cái đẹp, cái tốt nhưng cũng biết thanh lọc để buông bỏ, từ chối, đoạn tuyệt với cái xấu, ác, sai đang giày vò trong suy nghĩ, ý thức của các em để tạo ra sự cân bằng giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của mỗi cá nhân cũng như của toàn xã hội. Một khi biết buông bỏ, thanh lọc những rác rưởi, xấu xa trong ý thức nghĩa là đã biết sống bao dung, độ lượng, vị tha, tự do và tự chủ. Đó chính là biểu hiện của lối sống nhân văn hiện đại cần phải có để người Việt Nam hôm nay làm chủ khoa học, công nghệ thời đại 4.0. 3. Kết luận Giá trị nhân văn của tư tưởng Krishnamurti là không cần phải bàn cãi. Một lần nữa, trên quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác, chúng ta nên đọc và cần đọc lại để suy ngẫm và lựa trong tư tưởng nhân sinh của ông những viên ngọc nhân văn quý giá để có cơ sở khoa học và thực tiễn đề ra các giải pháp giáo dục con người Việt Nam nhất là thế hệ trẻ hôm nay cách sống 52 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 40 (10-2019) trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, cách mạng 4.0 và hội nhập quốc tế sâu rộng sao cho đúng đắn, văn minh đầy tính nhân văn, cao thượng góp phần tạo dựng lên một thế giới hòa bình bền vững mà ở đó tự do của xã hội là điều kiện tự do cho mỗi cá nhân. Mỗi chúng ta đặc biệt là thế hệ trẻ nên suy ngẫm về triết lý nhân sinh của Krishnamurti để lựa chọn cho mình một lối sống tử tế, giàu lòng vị tha, nhân văn, nhân đạo khi cuộc cách mạng 4.0 đã gõ cửa từng nhà, từng cửa sổ tâm hồn của mỗi người. Nếu ai cũng giành chút ít thời gian mỗi ngày của mình để đọc, ngẫm và làm theo những điều Krishnamurti nêu ra ở trên, tôi chắc chắn rằng, lòng họ sẽ bớt đi ưu tư, phiền muộn, biết đủ để sống sao cho hạnh phúc, biết buông để nhẹ lòng, biết sống chậm lại một ít để được thanh thản, biết tha thứ để tránh xung đột không cần thiết, không tiến hành những hành động có mục đích xấu, động cơ thấp hèn, tư lợi cá nhân bất chính đó chính là hướng đi cho cuộc đời an yên, hạnh phúc và đời khi đó thực sự sẽ là dòng sông thanh tẩy. Tài liệu tham khảo [1]. Nguyễn Tiến Dũng (1999), Lịch sử triết học phương Tây, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. [2]. R. Fouère (2007), Krishnamurti - Cuộc đời và tư tưởng, (Võ Văn Quế biên dịch), NXB Văn hóa Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh. [3]. P. Jayakar (1997), Tiểu sử Krishnamurti, (Mỹ Liên dịch), California. [4]. J. Krishnamurti (1969), Đường vào hiện sinh, (Trúc Thiên biên dịch), NXB An Tiêm, Sài Gòn. [5]. J. Krishnamurti (2002), Krishnamurti, Cuộc đời và tư tưởng - Tập III: Dòng sông thanh tẩy, (Nguyễn Ước biên dịch), NXB Văn học Hà Nội. [6]. J. Krishnamurti (2007), Cuộc đời phía trước, (Lê Tuyên biên dịch), NXB Văn hoá Dân tộc, Hà Nội. [7]. J. Krishnamurti (2007), Tham thiền, vẻ đẹp và tình yêu, (Thanh Lương- Thiện Sáng dịch), NXB Lao động, Nhà phát hành Văn Lang. [8]. Hồ Bá Thâm (2009), “Vấn đề con người, nhân văn trong triết học phương Tây hiện đại và chủ nghĩa duy vật nhân văn hiện nay”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX, tháng 11/2006. J.KRISHNAMURTI’S LIFE PHILOSOPHY AND PRACTICAL VALUES FOR EDUCATING HUMANITIES TO THE VIETNAMESE IN THE CURRENT PHASE Summary J.Krishnamurti was the 20th century’s great life philosopher. His philosophy raises issues to not only contemporary concerns but to all times because these are eternal problems in human life such as fate, existence, transcendence and deterioration. In his view, human deterioration in modern Western society is caused by the self fi lled with selfi shnesses. He offered solutions to persuade people to purify individuals and social souls via such lifestyles as "life without focus", "Living is a timeless phenomenon, knowing is without contemplations and acting without intents". In fact, these are spiritual solutions, inclining to move and awaken the inner world, awakening individual consciousness in human life. Although these are not new in the philosophical and idealistic history, Krishnamurti's most important contribution is to point out the emerging problems in individual life as well as in modern society nowadays. Keywords: Life is a purifying river, deterioration, Krishnamurti's life philosophy, humanistic thought. Ngày nhận bài: 15/5/2019; Ngày nhận lại: 04/10/2019; Ngày duyệt đăng: 16/10/2019.
File đính kèm:
- triet_ly_nhan_sinh_cua_j_krishnamurti_va_gia_tri_thuc_tien_d.pdf