Tôn giáo và tín ngưỡng từ góc nhìn nhân học tôn giáo
Tôn giáo và tín ngưỡng (TGTN) là khái niệm mà hầu
hết chúng ta đều biết tới nhưng rất khó để đưa ra được một định
nghĩa toàn diện và mang tính phổ quát. Đây là một phạm trù vô
cùng thú vị nhưng cũng hết sức phức tạp do các đặc tính trừu
tượng của đối tượng này. TGTN là những sản phẩm tinh thần đã
được con người tạo ra từ buổi bình minh của lịch sử, là một
phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người và
là một phần quan trọng trong nền văn minh nhân loại. Nền khoa
học hàn lâm hiện đại có vô số hướng tiếp cận đối với TGTN.
Bên cạnh những hướng tiếp cận truyền thống, như: Sử học,
Thần học, Mỹ học, Triết học, v.v còn có thêm nhiều phân
ngành khác, như: Văn hóa học, Tôn giáo học, Chính trị học, Xã
hội học tôn giáo, Tâm lý học tôn giáo, v.v Đặc biệt, sự góp
mặt của Nhân học tôn giáo với phổ nhìn bao quát từ “văn hóa
nguyên thủy” (thuật ngữ của Tylor) đến các hiện tượng TGTN
trong đời sống đương đại đã có thể giúp cho việc xem xét các
vấn đề liên quan đến TGTN mà không bị ràng buộc bởi các rào
cản lý luận. Bài viết này đề cập đến vị trí của Nhân học tôn giáo
trong khoa học xã hội và nhân văn hiện nay.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tôn giáo và tín ngưỡng từ góc nhìn nhân học tôn giáo
n tộc người như Từ Chi đã đề cập ở trên, thông qua các hình thức tang ma và mai táng, các nhà nhân học còn có thể tìm hiểu sâu hơn về nhân sinh quan và thế giới quan bản địa cũng những biến đổi của nó theo thời gian. Đặc biệt là các hình thức mai táng. Nếu như tang ma là “giải pháp tối chung” để khuôn xếp số phận của linh hồn thì hình thức mai táng chính là kết quả cuối cùng đến từ giải pháp ấy. Nói cách khác, quan niệm về linh hồn như thế nào thì cho ra biểu hiện tương tự của hình thức mai táng. Những công trình mai táng tiêu biểu như Kim tự tháp ở Ai Cập, lăng mộ Tần Thủy Hoàng ở Trung Quốc hay lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn ở Việt Nam, chính là “nơi trở về” của họ. Hoặc chí ít, đó cũng là nơi khởi đầu hành trình của linh hồn sau khi rời thể xác theo quan niệm của họ. Tùy thuộc vào mỗi truyền thống văn hóa, trên thế giới hiện nay tồn tại các hình thức mai táng như sau: 1) Địa táng (chôn cất) 2) Mộc táng (treo trên cây) 3) Không táng (gắn vào vách đá) 4) Thủy táng (thả xác xuống nước) 5) Thiên táng hay điểu táng (đặt xác ở một nơi cao và vắng vẻ cho chim ăn) 6) Hỏa táng (đốt xác) 7) Thiền táng hay tượng táng (ngồi thiền cho đến lúc chỉ còn xác khô và tô thành tượng). Ngoài ra còn có những hình thức mai táng hiếm như ướp xác, thả thuyền trôi sông/biển, ngâm bùn, đóng băng, táng trong cột gỗ, thân cây, hốc đá, Mỗi hình thức mai táng này lại có các dạng quan tài, đồ tùy táng và thể thức táng và nghi thức táng khác nhau. Chẳng hạn, địa táng hay còn gọi là thổ táng là chôn xuống đất nhưng có nơi dùng mộ 18 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 12 - 2018 thuyền (chôn bằng thuyền như trong văn hóa Đông Sơn), có nơi dùng mộ chum (chôn bằng chum như văn hóa Sa Huỳnh), Có nơi táng nằm nhưng có nơi lại táng ngồi, có nơi lấp đất như người Việt nhưng có nơi lại để lộ thiên để tiếp tục cho thêm các thi hài tiếp theo vào cùng một mộ táng như người Cơtu,... Cùng với các hình tức mai táng mang đặc thù văn hóa, việc lựa chọn nơi mai táng cũng là một trong những vấn đề phức tạp nhất có liên quan đến việc lựa chọn nơi yên nghỉ của linh hồn. Việc lựa chọn địa điểm mai táng cho người chết ở Trung Quốc và Việt Nam được đẩy lên thành một bộ môn gọi là “khoa học huyền bí” với sự tham gia của các “thầy địa lý - phong thủy”. Cho tới nay, loại “khoa học huyền bí” này vẫn chưa được lý giải và cũng chưa được công nhận nhưng sự ảnh hưởng của nó đến việc lựa chọn nơi mai táng và thời gian mai táng thì đã có ảnh hưởng đến hầu như mọi gia đình. Đặc biệt, với truyền thống giữ xương cốt nhiều đời và việc chọn huyệt địa theo phong thủy đã khiến cho mộ táng trở thành một vấn đề nóng bỏng trong quá trình phát triển hiện nay. Có thể nói, việc tìm hiểu tang ma và các hình thức mai táng là một chủ đề vô cùng rộng lớn cho các nhà nhân học đặt mối quan tâm đến TGTN. Ở đây, các nhà nghiên cứu không chỉ mô tả các hình thức và diễn biến mà còn có thể tìm hiểu những tác động qua lại giữa người sống và cõi chết, giữa người ra đi và người ở lại theo từng quan niệm và truyền thống văn hóa. Thậm chí, nhà khoa học có thể tìm hiểu những xung đột đã và đang diễn ra giữa những nghi lễ truyền thống với xã hội hiện đại, hay những tranh chấp hoặc chồng lấn giữa các yếu tố được gọi là “tâm linh” với những hoạt động đời thực. Chẳng hạn như hoạt động “kinh doanh tâm linh” trong một “thị trường tâm linh” bằng tiền thật (không phải tiền “âm phủ”) với giá đất mai táng có thể được đẩy lên tới hàng tỷ đồng cho một “suất” ở các nghĩa trang “siêu sang” trong khi thời hạn thuê đất của các nghĩa trang đó chỉ là 50 năm (!). Nhà nghiên cứu cũng có thể giải mã “khoa học tâm linh” trong các hoạt động gọi hồn và áp vong với sự xuất hiện của các doanh nghiệp tâm linh đặt trong sự kết nối với “khoa học huyền bí” mà chúng tôi đã đề cập ở trên và ở một số nghiên cứu gần đây12. Đây chính là Đinh Hồng Hải. Tôn giáo và tín ngưỡng từ góc nhìn 19 khoảng trống rộng lớn hầu như chưa được khám phá của các nhà nghiên cứu TGTN nói chung và các nhà nhân học ở Việt Nam nói riêng. Để tìm hiểu các vấn đề có liên quan đến tang ma, mai táng, cái chết hay đời sống sau khi chết cũng như các hiện tượng TGTN nói chung, nhà nhân học không thể chỉ khảo tả mà còn phải rút ra các quy luật và đưa ra những kiến giải mang tính lý thuyết. Với vô số TGTN được hình thành trong suốt dòng chảy lịch sử của nhân loại (và dường như chúng luôn có xu thế ngày càng nhiều thêm), các nhà khoa học từ Cổ Trung đại đến Cận Hiện đại luôn phải tìm tòi để đưa ra những quan điểm học thuật về tôn giáo để lý giải các thành tố văn hóa đặc thù này. Vai trò của Nhân học tôn giáo sẽ còn được mở rộng thêm trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến đổi văn hóa hiện nay. Có thể nói, TGTN là một trong những đối tượng nghiên cứu đang được đặc biệt quan tâm trong giai đoạn hiện nay bởi những xung đột của các tôn giáo, chủ nghĩa khủng bố, sự khủng hoảng đời sống tinh thần, Để giải quyết những vấn đề có liên quan đến TGTN thì các giải pháp quân sự hay kinh tế dường như đã không mang lại hiệu quả. Trên thực tế, để giải quyết tận gốc rễ của vấn đề này thì văn hóa thực sự là một giải pháp tối chung. Tuy nhiên, giải pháp này đòi hỏi sự đóng góp không thể thiếu của các quan điểm học thuật tiến bộ và phù hợp với nhiều tôn giáo và tín ngưỡng đang tồn tại trong xã hội mà chúng ta đang sống. Nhân học tôn giáo chính là một chuyên ngành mang tính phổ quát và phù hợp với bối cảnh này. Ở Việt Nam, sau hơn nửa thế kỷ “vô thần”, người dân lại bung ra lựa chọn đức tin/niềm tin cho mình. Nhưng cũng trong giai đoạn này, nhiều hiện tượng tôn giáo và tín ngưỡng mới đã nảy sinh làm đau đầu các nhà quản lý và làm hao tổn nhiều giấy mực của giới nghiên cứu. Một loạt vấn đề cần đặt ra trong việc giải quyết các tranh cãi xoay quanh các câu hỏi: Cái gì hợp chuẩn, cái gì không hợp chuẩn? Đâu là ranh giới của mê tín và không mê tín? Yếu tố nào thuộc tôn giáo và yếu tố nào thuộc tín ngưỡng?, v.v Trong bối cảnh đó, Nhân học tôn giáo sẽ là một trong những hướng tiếp cận ít gây xung đột nhất so với các phân ngành chuyên biệt có cùng đối tượng nghiên cứu là TGTN. /. 20 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 12 - 2018 CHÚ THÍCH: 1 Ở giai đoạn này, những người như Aristote hay Khổng Tử không chỉ là một nhà triết học hay mỹ học (theo nhận thức của thời đại chúng ta hiện nay) mà họ là những nhà bác học thực sự trong con mắt của cộng đồng với kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý” nên được gọi là những nhà thông thái (thông thái: hiểu biết rộng và sâu - Từ điển tiếng Việt, tr. 920). 2 Ví dụ: Hệ thống văn hóa (cultural system) của Clifford Geertz, hệ thống biểu tượng (system of symbols) của Victor Turner, thuyết thế tục (secularism) của Max Weber, cấu trúc xã hội (social constructionism) của Daniel Dubuisson và nhiều quan điểm khác của Timothy Fitzgerald, Talal Asad, Jason Ananda Josephson,... mà chúng tôi chia làm hai hướng tiếp cận như trên. 3 Thời kỳ Khai sáng được coi là một cuộc cách mạng tư tưởng trong Triết học nhờ vào những thành tựu của khoa học tự nhiên thế kỷ 17-18. Trào lưu này sau đó ảnh hưởng sâu rộng đến văn chương, nghệ thuật và khoa học xã hội ở những giai đoạn tiếp theo, được coi như một bước ngoặt trong lịch sử phát triển của nhân loại. 4 Điều này dễ nhận thấy qua hành vi của binh lính Đức Quốc xã với cuộc diệt chủng người Do Thái hay các bác sĩ mổ tạng ở Trung Quốc trong trào lưu thu hoạch tạng sống hiện nay. Xem thêm: David Matas & David Kilgour (2009), Bloody Harvest [Thu hoạch máu], Seraphim Editions. 5 Ông coi đó là một sự “chia cắt và cấm đoán - những tín ngưỡng và thực hành hợp thành một cộng đồng có đức tin duy nhất gọi là Giáo hội, bao gồm tất cả những ai tôn trọng họ”. Tuy nhiên, những gì được coi là thiêng không giới hạn ở những vật như là đá, cây, mùa xuân, hòn sỏi, miếng gỗ, một ngôi nhà, một từ, bất cứ thứ gì có thể được coi là thiêng. Những tín ngưỡng, thần thoại, giáo điều và truyền thuyết tôn giáo là những biểu hiện diễn tả bản chất tự nhiên của những cái thiêng này cùng những đặc tính và quyền hạn được gán cho chúng. Xem thêm: Durkheim, Emile (1915), The Elementary Forms of the Religious Life [Những dạng thức căn bản của đời sống tôn giáo], London: George Allen & Unwin. 6 Tambiah S. J. (1990), Magic, Science, Religion and the Scope of Rationality (Ma thuật, khoa học, tôn giáo và phạm vi của duy lý), Cambridge: CambridgeUniversity Press, p. 6. Dẫn theo: Nguyễn Thị Hiền (2012), “Khái niệm tôn giáo từ góc độ nhân học văn hóa”, Xưa và nay, số 415, tháng 11. 7 Các tác giả được tuyền dịch trong cuốn sách này bao gồm: Fran Boas, Mary Douglas, Raymond Firth, Clifford Geertz, Terence Hawkes, C. Levi-Strauss, M. Malinowski, David Schneider, và Victor Turner. Xem: Đinh Hồng Hải (2014). 8 Theo quan niệm của Đạo giáo, ba hồn là Sảng Linh 爽靈, Thai Quang 胎光, và U Tinh 幽精. Bảy vía (còn gọi là phách) bao gồm Thi Cẩu 尸苟 Phục Thỉ 伏矢, Tước Âm 雀陰, Thôn Tặc 吞賊, Phi Độc 非毒, Trừ Uế 除穢, và Xú Phế 臭肺. Quan niệm dân gian của người Việt cho rằng nam có bảy vía và nữ có chín vía, vì vậy những người không rõ là nam hay nữ thì gọi là tám vía. 9 Theo Từ điển tiếng Việt, Sđd, tr. 865, Tâm linh là “1. Khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xảy ra với mình, theo quan niệm duy tâm. 2. (ít dùng) Tâm hồn, tinh thần”. Trong tiếng Hán, Tâm linh (心靈) hay còn gọi là tâm thần (mind) đề cập đến tập hợp của các khả năng nhận thức, các cá nhân có khả năng nhận thức thế giới bên ngoài, để suy nghĩ và ghi nhớ mọi thứ. Đinh Hồng Hải. Tôn giáo và tín ngưỡng từ góc nhìn 21 10 Ngoài ra, còn có một số quan điểm vật lý lý thuyết cho rằng xác là phần vật chất hay “phần hạt” được cấu tạo bởi các phân tử hữu cơ của các-bon, hydro, canxi cùng nhiều nguyên tố vi lượng khác, còn hồn là một dạng thuộc “phần sóng” cấu tạo nên cơ thể sống của con người. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những giả thuyết bước đầu cần được nghiên cứu thêm. 11 Chẳng hạn, đám tang của các tín đồ Kitô giáo thường có các bước như: Thức cầu nguyện, Thánh lễ an táng, Nghi thức phó dâng, tang lễ, chia sẻ tưởng niệm, đọc kinh, hát thánh ca, hỏa táng/địa táng. 12 Xem loạt bài trên tạp chí Giáo dục nghệ thuật từ số 19-21 năm 2016-2017 trong thư mục tài liệu tham khảo. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Boas, Franz (1955), Primitive Art, Dove publication Inc., New York. 2. Bowker, J. (2011), Từ điển tôn giáo thế giới giản yếu (Lưu Văn Hy dịch, Chương Ngọc hiệu đính), Nxb. Từ điển Bách Khoa, Hà Nội. 3. Geertz, C. (1973), The Interpretation of Culture, New York: Basic Books. 4. Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng: Một số hướng tiếp cận lý thuyết, Nxb. Thế giới, Hà Nội. 5. Đinh Hồng Hải (2016), “Sáng tạo truyền thống qua biểu tượng Mẫu Liễu trong văn hóa Việt Nam”, Giáo dục nghệ thuật, số 19. 6. Đinh Hồng Hải (2017a), “Mẫu Liễu trong huyền thoại và trong đởi sống người Việt,” Giáo dục nghệ thuật, số 20. 7. Đinh Hồng Hải (2017b), “Hiện tượng đồng cốt và vai trò của Mẫu Liễu trong đời sống các tín đồ người Việt”, Giáo dục nghệ thuật, số 21. 8. Durkheim, Emile (1915), The Elementary Forms of the Religious Life, London: George Allen & Unwin. 9. Nguyễn Thị Hiền (2012), “Khái niệm tôn giáo từ góc độ nhân học văn hóa,” Xưa và nay, số 415, tháng 11. 10. 11. James, W. (1902), The Varieties of Religious Experience, A Study in Human Nature, Longmans, Green, and Co. 12. Levi-Strauss C. (1963), Structural Anthropology, New York: Basic Books. 13. Marx, K. & Engels F. (2004), “Chống Đuy-rinh,” trong Các Mác và Ph. Ăng- ghen toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội 14. Matas, D. & Kilgour, D. (2009), Bloody Harvest, Seraphim Editions. 15. Monaghan, John & Just, Peter (2000), Social & Cultural Anthropology, New York: Oxford University Press. 16. Hoàng Phê (cb. 1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà nẵng & Trung tâm Từ điển học. 17. Quốc hội Khóa 14 nước CHXHCN Việt Nam (2016), Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo (bản PDF 2016). 18. Rojo, S. Vuscovic (2000), “Tôn giáo, thuốc phiện của nhân dân và sự phản kháng chống lại khốn cùng thực tại - Các quan điểm của Mác và Lênin”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 2. 19. Tambiah. S. J. (1990), Magic, Science, Religion and the Scope of Rationality, Cambridge: CambridgeUniversity Press. 20. Ngô Đức Thịnh (cb. 2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 22 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 12 - 2018 21. Turner, Victor (1967), The Forest of Symbols: Aspects of Ndembu Ritual, New York: Cornell University Press. 22. Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người, Nxb. Văn hóa thông tin & Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội. 23. Tylor, E. B. (1871), Primitive Culture: Researches Into the Development of Mythology, Philosophy, Religion, Art, and Custom, Vol. 1. London: John Murray. 24. Van Gennep, A. (1960), The Rites of Passage, University of Chicago Press. 25. Đặng Nghiêm Vạn (cb. 1998), Lý luận tôn giáo và vấn đề tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 26. Vargyas G. (2018), Bất chấp định mệnh: Văn hóa và phong tục tập quán người Bru-Vân Kiều (Giáp Thị Minh Trang dịch, Đinh Hồng Hải và Vũ Tuyết Lan hiệu đính), Nxb. Dân trí và Cty Đông Tây, Hà Nội. 27. Vergote, A. (1996), Religion, Belief and Unbelief. A Psychological Study, Leuven University Press. 28. Weber, M. (2010), Nền đạo đức tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản (Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Trần Hữu Quang dịch), Nxb. Tri thức, Hà Nội. Abstract ANTHROPOLOGY OF RELIGION’S VIEWS ON RELIGION AND BELIEF Dinh Hong Hai Department of Anthropology University of Social Sciences & Humanities, Hanoi Religion and belief are common concept, however, it is difficult to come up with a comprehensive and universal definition. It is an extremely interested category but it is also very complicated because of the abstract characteristics of this object. Religions and beliefs have been spiritual products created by humanbeings since the dawn of history, an integral part of human spiritual life and an important part of human civilization. The contemporary academic science has innumerable approaches to religion and belief. In addition to traditional approaches such as History, Theology, Aesthetics, Philosophy, etc., there are many other sections such as Cultural Studies, Science of Religion, Politics, Sociology of religion, Psychology of religion, etc., In particular, the participation of anthropology of religion with a broad view from “primitive culture” (Tylor’s term) to the phenomena of religion and belief in contemporary life helps to examine issues related to religions and beliefs without being limited by theoretical barriers. This article indicates the anthropology of religion’s status in the social sciences and humanities at present. Keywords: Anthropology of religion; religion; belief.
File đính kèm:
- ton_giao_va_tin_nguong_tu_goc_nhin_nhan_hoc_ton_giao.pdf