Tìm hiểu một số lý thuyết liên quan đến mô hình chấp nhận công nghệ
Bài nghiên cứu này tác giả tiến hành tóm tắt ngắn gọn các lý thuyết liên quan đến mô hình chấp
nhận công nghệ, trong đó chủ yếu là làm rõ các mô hình nghiên cứu. Các lý thuyết được xem xét bao
gồm: Lý thuyết Lan truyền sự đổi mới (IDT-Rogers, 1983), Lý thuyết Chấp nhận công nghệ (TAM- Davis,
1989; TAM 2 - Venkatesh & Davis, 2000; TAM 3 - Venkatesh và Bala, 2008) và Lý thuyết Hợp nhất và
chấp nhận sử dụng công nghệ (UTAUT - Venkatesh, Morris và Davis, 2003). Ngoài ra tác giả còn đưa
ra sự so sánh những khác biệt cơ bản giữa các mô hình, đặc biệt là tìm ra sự khác biệt trong phạm vi
áp dụng chúng vào nghiên cứu thực nghiệm.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu một số lý thuyết liên quan đến mô hình chấp nhận công nghệ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu một số lý thuyết liên quan đến mô hình chấp nhận công nghệ
ợc kiểm duyệt bởi biến kinh nghiệm: (i) PEU và PU; (ii) sự lo ngại về máy tính và PEU; và (iii) PEU và ý định sử dụng. Nghiên cứu 117 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 36 (02-2019) cũng được thực hiện bằng cách triển khai áp dụng hệ thống CNTT mới trên 4 tổ chức tương tự TAM2, dữ liệu được thu thập trong 5 tháng. Kết quả cho thấy các mối quan hệ giữa các biến phụ tác động lên PU là phù hợp với TAM2. Bên cạnh đó, nghiên cứu cho thấy (i) ảnh hưởng của PEU lên PU bị kiểm duyệt bởi biến kinh nghiệm, với kinh nghiệm ngày càng tăng thì hiệu ứng ảnh hưởng cành mạnh; (ii) ảnh hưởng của sự lo ngại về máy tính lên PEU bị kiểm duyệt bởi kinh nghiệm, khi kinh nghiệm càng tăng thì mức độ ảnh hưởng càng giảm; (iii) sự ảnh hưởng của PEU lên ý định sử dụng bị kiểm duyệt bởi kinh nghiệm, kinh nghiệm càng tăng thì mức độ ảnh hưởng càng giảm. Mô hình nghiên cứu TAM3 đã được đưa vào thử nghiệm trong thực tế trong việc triển khai sử dụng CNTT [5]. Tóm lại, các TAM thường bắt nguồn để áp dụng cho bất kỳ sự nghiên cứu nào về sự tương tác của con người với máy tính nói riêng và CNTT nói chung. Các TAM khẳng định rằng hai cấu trúc nổi bật là PU và PEU là tiền đề quan trọng của khuynh hướng hành vi sử dụng CNTT (Davis, Bogozzi and Warshaw, 1989). Nhiều nhà nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm để kiểm tra khả năng giải thích của các TAM, mà những kết quả là tương đối nhất quán về hành vi chấp nhận CNTT của người dùng, ví dụ như: Igbaria, Zinatelli, Cragg & Cavaye, 1997; Venkatesh & Davis, 2000; Horton, Buck, Waterson & Clegg, 2001 [4]. 2.3. Lý thuyết hợp nhất về chấp nhận và sử dụng công nghệ (UTAUT) Mô hình Lý thuyết UTAUT được xây dựng bởi Viswanath Venkatesh (2003) và các cộng sự: Michael G. Moris, Gordon B.Davis, và Fred D. Davis dựa trên tám mô hình/lý thuyết thành phần, đó là: Thuyết hành động hợp lý (TRA), Thuyết hành vi dự định (TPB), Mô hình chấp nhận công nghệ (TAM, TAM2), Mô hình động cơ thúc đẩy (MM), Mô hình kết hợp (TAM&TPB), Mô hình sử dụng máy tính cá nhân (MPCU), Thuyết lan truyền sự đổi mới (IDT) và Thuyết nhận thức xã hội (SCT). Các tác giả tiến hành thử nghiệm trên 4 tổ chức trong thời gian 6 tháng, sau khi xem xét và thực nghiệm so sánh tám mô hình cạnh tranh với 32 yếu tố, UTAUT đã được thiết lập bằng việc lựa chọn và tích hợp các yếu tố trên 8 mô hình thành phần trên (hình 4). Hiệu quả mong đợi Nỗ lực mong đợi Ảnh hưởng của xã hội Các điều kiện thuận tiện Ý định hành vi Hành vi sử dụng Giới tính Độ tuổi Kinh nghiệm Tự nguyện sử dụng Hình 4. Mô hình Lý thuyết hợp nhất về chấp nhận và sử dụng công nghệ UTAUT (Venkatesh, Morris and Davis, 2003) Mô hình đã được đưa vào kiểm nghiệm trên cả dữ liệu gốc và dữ liệu mới và đều cho kết quả khả năng giải thích cao hơn 8 mô hình đơn lẻ. Các tác giả đã kỳ vọng rằng có 3 yếu tố có tác động trực tiếp lên ý định hành vi (hiệu quả mong đợi, nổ lực mong đợi, ảnh hưởng của xã hội) và 2 yếu tố tác động trực tiếp lên hành vi sử dụng thực tế (các điều kiện thuận tiện và ý định hành vi). Bên cạnh đó, các yếu tố trung gian: Giới tính, độ tuổi, kinh nghiệm và tự nguyện sử dụng tác động gián tiếp đến ý định hành vi và hành vi sử dụng thông qua các nhân tố chính. Mô tả các biến chính trong mô hình: Hiệu quả mong đợi: được định nghĩa là mức độ mà một cá nhân tin rằng bằng cách sử dụng hệ thống sẽ giúp người dùng đạt được hiệu quả công việc cao hơn [10, tr. 447]. Nỗ lực mong đợi: được định nghĩa là mức độ dễ dàng kết hợp với việc sử dụng hệ thống [10, tr. 450]. Ảnh hưởng xã hội: Ảnh hưởng xã hội được định nghĩa là mức độ mà cá nhân nhận thấy rằng những người quan trọng khác tin rằng họ nên sử dụng hệ thống mới [10, tr. 451]. Các điều kiện thuận tiện: được định nghĩa là mức độ mà một cá nhân tin rằng một cơ sở hạ tầng kỹ thuật và tổ chức tồn tại để hỗ trợ sử dụng của hệ thống [10, tr. 453]. Kết quả nghiên cứu cho thấy: (i)“Hiệu suất mong đợi” dường như là yếu tố ảnh hưởng lên ý định hành vi trong hầu hết các tình huống. Mức độ ảnh hưởng thay đổi theo giới tính và độ tuổi, nó mạnh hơn đối với nam giới và công nhân trẻ; (ii) Ảnh hưởng của “Nỗ lực mong đợi” lên ý định hành vi cũng được kiểm duyệt theo giới tính và độ tuổi, nó mạnh hơn đối với phụ nữ và công nhân lớn tuổi, và những tác động đó giảm theo kinh nghiệm; 118 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 36 (02-2019) (iii) Mối quan hệ giữa “Ảnh hưởng xã hội” lên ý định hành vi chịu sự kiểm duyệt của cả bốn biến (giới tính, độ tuổi, kinh nghiệm và tự nguyện), mối quan hệ sẽ không có ý nghĩa nếu không có biến kiểm duyệt đưa vào; (iv) Cuối cùng, “điều kiện thuận lợi” ảnh hưởng lên hành vi sử dụng chỉ có ý nghĩa khi được kiểm tra kết hợp với những tác động điều tiết của tuổi tác và kinh nghiệm, chúng chỉ quan trọng đối với những công nhân lớn tuổi trong các giai đoạn sau của trải nghiệm. Tóm lại, UTAUT cung cấp một công cụ hữu ích cho các nhà quản lý để đánh giá khả năng thành công của việc giới thiệu công nghệ mới và giúp họ hiểu được những yếu tố tác động đến việc chấp nhận hoặc từ chối sử dụng một cộng nghệ mới. Trên cơ sở đó họ chủ động thiết kế các can thiệp (bao gồm đào tạo, tiếp thị,) nhằm vào người sử dụng, đặc biệt là những đối tượng ngại thay đổi [10]. 3. So sánh về mô hình lý thuyết chấp nhận công nghệ So sánh TAM, TAM2, TAM3 và UTAUT Mô hình TAM đưa ra 2 yếu tố PU và PEU quyết định ảnh hưởng thái độ người dùng mà chưa xét đến các yếu tố bên ngoài nên bị hạn chế về khả năng giải thích. TAM 2 khắc phục bằng cách giữ nguyên TAM và "bổ sung các yếu tố quyết định đến PU và ý định sử dụng của TAM, và để hiểu tác dụng của các yếu tố quyết định này thay đổi theo kinh nghiệm của người dùng theo thời gian với hệ thống đích" [9, tr. 187]. Hạn chế của TAM 2 chỉ tập trung vào các yếu tố quyết định đến PU và ý định sử dụng của TAM, nên TAM 3 của Venkatesh và Bala (2008) đã thêm các yếu tố quyết định đến PEU và ý định sử dụng của TAM. Do đó, TAM3 đã trình bày một mạng lưới danh nghĩa hoàn chỉnh hơn TAM và TAM 2 về các yếu tố quyết định việc áp dụng hệ thống CNTT của người dùng. UTAUT là một mô hình tích hợp các yếu tố của 8 mô hình thành phần trong đó có các TAM. Nó ưu điểm hơn các TAM là mô hình hình thành từ một quy trình thử nghiệm bài bản bằng việc đưa 8 mô hình thành phần vào thực tế kiểm nghiệm trên nhiều tổ chức, chọn ra các yếu tố có ảnh hưởng mạnh nhất đến hành vi sử dụng của người dùng. Sau khi hình thành mô hình lại tiếp tục đưa vào thử nghiệm trên dữ liệu cũ và mới, quá trình này các TAM không có. Và kết quả thử nghiệm cho thấy khả năng giải thích của mô hình này cao hơn các mô hình thành phần trong đó có các TAM. TAM2 là mở rộng của TAM, TAM3 và UTAUT là mở rộng của TAM2, tuy nhiên như vậy không có nghĩa là TAM bị bác bỏ và TAM2, TAM3, UTAUT là hoàn hảo. TAM là mô hình đơn giản nên sẽ dễ áp dụng hơn vào thực nghiệm, TAM2, TAM3, UTAUT mô hình chứa nhiều yếu tố tác động hơn nên sẽ phải mất thời gian, chi phí để xem xét xác định lại mô hình cho phù hợp với điều kiện thực tế mỗi nghiên cứu thực nghiệm. Kriponant, đã chỉ ra TAM là dễ áp dụng và phân tích trên các mô hình nghiên cứu khác nhau [7]. Venkatesh & cộng sự, cũng đã chỉ ra hạn chế của UTAUT là việc lựa chọn biến trong mô hình bằng cách chọn lọc từ các mô hình thành phần, do vậy sẽ có những biến từ một số mô hình không được đại diện trong một số cấu trúc cốt lõi. Do vậy các tác giả khuyên các nghiên cứu trong tương lai khi sử dụng UTAUT nên xác định rõ mục tiêu, quy mô nghiên cứu, sau đó xác lập lại mô hình cho phù hợp với từng nghiên cứu cụ thể. So sánh TAM, IDT và UTAUT Xét về nguồn gốc hình thành thì TAM hình thành từ lĩnh vực hệ thống thông tin và ứng dụng công nghệ (Davis, 1986). Các lĩnh vực thuộc nguồn gốc của IDT là nhân chủng học, giáo dục, xã hội học, truyền thông và tiếp thị (Katz & cộng sự, 1963; Dingfelder & Mandell, 2011; Shumway, & Wandschneider, 2010; Katz & cộng sự, 1963). Đối với UTAUT thì được phát triển trong lĩnh vực công nghệ thông tin [3]. Xét về ứng dụng, mô hình TAM và UTAUT hầu hết được ứng dụng cho các nghiên cứu liên quan đến máy tính, CNTT. Riêng IDT áp dụng không chỉ CNTT mà nhiều lĩnh vực khác như: nghiên cứu sức khỏe tâm thần và hệ thống giáo dục (Dingfelder & Mandell, 2011); trong vấn đề môi trường quản lý chất thải (Bishop & cộng sự, 2010); trong xã hội học, nhân loại học (Katz & cộng sự, 1963). Bên cạnh đó các nhà nghiên cứu như Katz & cộng sự, 1963; Roger, 1995 đã chỉ ra IDT phù hợp với nghiên cứu ứng dụng dùng cho cả tổ chức cũng như cá nhân trong khi TAM và UTAUT phù hợp hơn với cấp độ cá nhân [3]. Và câu hỏi đặt ra: Liệu có mô hình nào là tối 119 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 36 (02-2019) ưu đo lường được sự chấp nhận chính xác nhất không? Tuy nhiên, không có dụng cụ toàn diện trong mọi hoàn cảnh để đo lường sự đa dạng của những nhận thức. Việc vận dụng một mô hình nghiên cứu chấp nhận công nghệ vào thực tế còn cần tùy thuộc vào nhiều yếu tố: không gian, thời gian, đối tượng mà người nghiên cứu lựa chọn mô hình nào cho phù hợp. Do vậy, các nghiên cứu có thể lựa chọn một mô hình đầy đủ hoặc thêm bớt các yếu tố trong mô hình gốc, hay có thể kết hợp nhiều mô hình cùng một lúc để phù hợp với điều kiện thực tế. Đơn cử như nhiều nghiên cứu thực nghiệm (Carter & Be'langer, 2005; LEGRIS, Ingham, & Colerette, 2003) khuyên rằng nên tích hợp TAM với các lý thuyết khác (IDT, hoặc DeLone & McLean là mô hình thành công) để đối phó với những thay đổi nhanh chóng trong công nghệ, và cải thiện độ đặc hiệu và khả năng giải thích [4]. Nghiên cứu của Lee, Hsieh &Hsu, 2011 cũng đã đưa ra dẫn chứng nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho thấy TAM và IDT cũng có một số cấu trúc và bổ sung cho nhau để kiểm tra việc áp dụng công nghệ, sự kết hợp của hai lý thuyết này có thể cung cấp một mô hình thậm chí còn mạnh hơn cả từng mô hình riêng lẻ. Các nghiên cứu trước tích hợp hai lý thuyết này, cung cấp kết quả tốt như Sigala, Airey, Jones, & Lockwood, 2000; Chen et al, 2002 [4]. Trong một nghiên cứu khác về việc áp dụng CNTT vào lĩnh vực y tế Khan và Woosley, 2011 đã đưa ra nhiều bằng chứng chứng minh ứng dụng mô hình UTAUT mới là phù hợp nhất mà lại không cần phải tích hợp với mô hình nào khác. Để việc so sánh trở nên dễ dàng và hữu ích hơn với người dùng, nội dung so sánh các mô hình trên được tác giả khái quát lại như bảng sau: Bảng 1. So sánh các mô hình lý thuyết chấp nhận công nghệ Mô hình Chỉ tiêu IDT (Rogers, 1983) TAM (Davis, Bagozzi and Warshaw, 1989) TAM2 (Venkatesh and Davis, 2000) TAM3 Venkatesh và Bala (2008) UTAUT (Venkatesh, Morris and Davis, 2003) Mức độ giải thích mô hình Mô hình không kiểm nghiệm thực tế ở nghiên cứu này 40%-50% 34%-60% 31%-53% 40%-77% Nguồn gốc lĩnh vực hình thành Nhân chủng học, giáo dục, xã hội học, truyền thông và tiếp thị Hệ thống thông tin và ứng dụng công nghệ CNTT CNTT CNTT Lĩnh vực ứng dụng phù hợp Đa lĩnh vực Máy tính và CNTT Máy tính và CNTT Máy tính và CNTT Máy tính và CNTT Tiền đề lý thuyết chính Nhân chủng học, xã hội học, nông thôn học, giáo dục học, xã hội học công nghiệp và y tế học TRA TAM TAM, TAM 2 TAM, TAM2, TRA, TPB, MM, TAM &TPB, MPCU, SCT, IDT Số lượt trích dẫn đến nay (Nguồn: internet) 98.856 21.857 15.331 3.589 22.104 (Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ các lý thuyết này) 4. Kết luận Mục đích của nghiên cứu này là làm rõ các mô hình chấp nhận công nghệ khá phổ biến là IDT, các TAM và UTAUT. Trong đó, tác giả làm rõ các khái niệm về các biến quan trọng và các mối quan hệ trong các mô hình này. Từ đó, tác giả cũng đưa ra các so sánh khác biệt giữa các mô hình dựa trên những tổng kết các nghiên cứu thực nghiệm trước đây. Tất cả những điều này là 120 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 36 (02-2019) quan trọng và cần thiết cho các nghiên cứu tiếp theo trong tương lai trong việc tìm hiểu cơ sở lý thuyết về các mô hình chấp nhận công nghệ, để phát triển lý thuyết mới hoặc lựa chọn các mô hình vào ứng dụng nghiên cứu thực nghiệm cho phù hợp nhất./. Tài liệu tham khảo [1]. F. D. Davis, R. P.Bagozzi, & P. R.Warshaw (1989). “User acceptance of computer technology: A comparison of two theoretical models, Management Science, (35), 982-1003. [2]. Robert G. Fichman (1992), “Information Technology Diffusion: “A Review of Empirical Research”, Proceedings of International Conference on Information Systems, 195-206. [3]. Arshia Khan & John M. Woosley (2011), “Comparison of Contemporary Technology Acceptance Models and Evaluation of the Best Fit for Health Industry Organizations”, Internatinonal journal of computer Science & Enginerring Technology, (11),709-717. [4]. Yi-Hsuan Lee, Yi-Chuan Hsieh & Chia-Ning Hsu (2011). “Adding Innovation Diffusion Theory to the Technology Acceptance Model: Supporting Employees' Intentions to use E-Learning Systems”, Educational Technology & Society, (4), 124–137. [5]. P. C. Lai (2017), “The literature review of technology adoption models and theories for the novelty technology”, Journal of Information Systems and Technology Management, (1), 21-38. [6]. Everett M. Rogers (1983), Diffusion of Innovations, The Free Press, New York. [7]. G. D. M. N. Samaradiwakara & C G Gunawardena (2014), “Comparison of existing technology acceptance theories and models to suggest a well improved theory/model”, International Technical Sciences Journal, (1), 21-36. [8]. V. Venkatesh & H. Bala (2008). “Technology Acceptance Model 3 and a Research Agenda on Interventions”, Decision Science, (2), 273-312. [9]. V. Venkatesh & F.D Davis (2000). “A Theoretical Extension of the Technology Acceptance Model: Four Longitudinal Field Studies”, Management Science, (2), 186-204. [10]. V. Venkatesh, M.G Morris, F.D Davis & G.B Davis (2003). “User Acceptance of Information Technology: Toward a Unifi ed View”, MIS Quarterly, (27), 425-478. STUDYING THEORIES OF TECHNOLOGY-ADOPTION MODELS Summary This paper gives a brief summary of theories of technology adoption models, focusing on clarifying models in consideration. It includes Innovation Diffusion Theory (IDT-Rogers, 1983), Technology Acceptance Model (TAM - Davis, 1989; TAM 2 - Venkatesh & Davis, 2000; TAM 3 - Venkatesh & Bala, 2008), and Unifi ed Theory of Acceptance and Use of Technology (UTAUT - Venkatesh, Morris, & Davis, 2003). In addition, the paper points out fundamental differences between these models, especially those differences in their empirical research applications. Keywords: Theory, model, technology acceptance. Ngày nhận bài: 11/7/2018; Ngày nhận lại: 05/12/2018; Ngày duyệt đăng: 25/02/2019.
File đính kèm:
- tim_hieu_mot_so_ly_thuyet_lien_quan_den_mo_hinh_chap_nhan_co.pdf