Thực trạng sản xuất và sâu bệnh hại trên cây hoa cúc tại thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng

Hoa cúc (Chrysanthemum spp.) là một trong những cây trồng chiếm diện tích lớn ở Đà Lạt. Canh tác

hoa cúc trong những năm gần đây dần chuyển sang canh tác trong nhà kính. Tuy nhiên, sản suất

hoa cúc gặp rất nhiều khó khăn do dịch hại, làm giảm từ 20- 60% năng suất, cá biệt năm 2019,

năng suất giảm từ 60- 80% với số lần phun thuốc trừ dịch hại lên đến 45 lần/vụ. Kết quả điều tra từ

năm 2019-2020 đã thu thập được 5 loài sâu hại và 10 loài bệnh hại xuất hiện phổ biến trên cây hoa

cúc. Trong đó, có bọ tr , nhện đỏ, dòi đục lá, bệnh đốm đen, đốm vòng và bệnh sọc thân do virus là

dịch hại chính trên cây hoa cúc tại Đà Lạt.

Thực trạng sản xuất và sâu bệnh hại trên cây hoa cúc tại thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng trang 1

Trang 1

Thực trạng sản xuất và sâu bệnh hại trên cây hoa cúc tại thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng trang 2

Trang 2

Thực trạng sản xuất và sâu bệnh hại trên cây hoa cúc tại thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng trang 3

Trang 3

Thực trạng sản xuất và sâu bệnh hại trên cây hoa cúc tại thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng trang 4

Trang 4

Thực trạng sản xuất và sâu bệnh hại trên cây hoa cúc tại thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng trang 5

Trang 5

Thực trạng sản xuất và sâu bệnh hại trên cây hoa cúc tại thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 1700
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng sản xuất và sâu bệnh hại trên cây hoa cúc tại thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng sản xuất và sâu bệnh hại trên cây hoa cúc tại thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng

Thực trạng sản xuất và sâu bệnh hại trên cây hoa cúc tại thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng
352 
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ SÂU BỆNH HẠI 
TRÊN CÂY HOA CÚC TẠI THÀNH PHỐ Đ LẠT, LÂM ĐỒNG 
Phạm Hữu Sang 
Viện Khoa học Ứng dụng HUTECH, Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh 
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hai 
TÓM TẮT 
Hoa cúc (Chrysanthemum spp.) là một trong những cây trồng chiếm diện tích lớn ở Đà Lạt. Canh tác 
hoa cúc trong những năm gần đây dần chuyển sang canh tác trong nhà kính. Tuy nhiên, sản suất 
hoa cúc gặp rất nhiều khó khăn do dịch hại, làm giảm từ 20- 60% năng suất, cá biệt năm 2019, 
năng suất giảm từ 60- 80% với số lần phun thuốc trừ dịch hại lên đến 45 lần/vụ. Kết quả điều tra từ 
năm 2019-2020 đã thu thập được 5 loài sâu hại và 10 loài bệnh hại xuất hiện phổ biến trên cây hoa 
cúc. Trong đó, có bọ tr , nhện đỏ, dòi đục lá, bệnh đốm đen, đốm vòng và bệnh sọc thân do virus là 
dịch hại chính trên cây hoa cúc tại Đà Lạt. 
Từ khóa: Hoa cúc (Chrysanthemum spp.), bọ tr , nhện đỏ, bệnh đốm đen, đốm vòng, bệnh sọc 
thân do virus. 
1 ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cây hoa cúc (Chrysanthemum spp.) có xuất xứ từ Trung Quốc, Nhật Bản và là một trong những loại 
hoa được trồng và sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam. Từ lâu đời, hoa cúc là một phần không thể 
thiếu trong văn hóa người Việt. không chỉ được ưa chuộng vì nhiều chủng loại và màu sắc, hoa cúc 
còn có đặc tính rất bền, tươi lâu, không bị rụng. Vì vậy hoa cúc được tiêu thụ nhiều trên thị trường 
Việt Nam. Đà Lạt là địa phương có diện tích trồng hoa cúc khá lớn. Hơn 70% nông dân ở Đà Lạt 
trồng hoa cúc, cung cấp cho hơn 80% thị trường hoa cúc cho các tỉnh phía Nam. Tuy nhiên những 
năm gần đây, nhiều nông dân ở Đà lạt phải nhổ bỏ cả ruộng vì dịch bệnh gây chết hàng loạt. 
2 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Giống hoa: Các giống hoa cúc (Chrysanthemum spp.) được trồng ở Đà Lạt. 
Điều tra thực trạng sản xuất hoa cúc: Tiến hành điều tra phỏng vấn nông dân ở các vùng trồng hoa 
và rau tại phường 12, thành phố Đà Lạt. 
Điều tra tình hình sâu, bệnh hại hoa cúc: Điều tra trên 5 ruộng ở phường 12. Tiến hành điều tra thực 
địa và phỏng vấn các hộ nông dân trồng hoa cúc (điều tra 20 hộ trồng hoa cúc tại phường 12 thành 
phố Đà Lạt, là địa phương có diện tích trồng hoa nhiều nhất). 
353 
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1 Thực trạng sản xuất hoa cúc tại Đà Lạt 
3.1.1 Hình thức canh tác 
Đà Lạt là vùng có khí hậu thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận 
lợi về khí hậu, Đà Lạt còn thường xuyên chịu ảnh hưởng của một số cơn ão, ấp thấp nhiệt đới và 
mưa k o dài. Do đó rất khó có thể kiểm soát được độ ẩm trong đất và phân ón, hóa chất bảo vệ 
thực vật dễ bị rửa trôi và gia tăng sự phát triển của sâu bệnh, cuối cùng ảnh hưởng đến sản lượng 
và chất lượng hoa. Để khắc phục được tình trạng đó, năm 2004 một số nông dân ở Đà Lạt đã tiến 
hành chuyển hình thức canh tác ở ngoài trời bằng canh tác trong nhà có mái che Plastic (Nhà kính , 
 ước đầu đã mang lại hiệu quả. Sau đó mô hình này được nhân rộng khắp thành phố Đà Lạt đặc 
biệt tại phường 12. Mô hình trồng hoa trong nhà kính đã giúp người nông dân kiểm soát được thời 
gian tưới tiêu, hạn chế dịch bệnh. Tuy nhiên, việc phát triển nhà kính ồ ạt như hiện nay đã làm giảm 
diện tích bề mặt hấp thụ nước mưa, gây tình trạng ngập lụt cho Đà Lạt (vấn đề chưa có trước đây , 
gây hiệu ứng nhà kính (Phạm Hồng Hải, 2017 [2]). So sánh nhiệt độ trung bình giai đoạn 2000 - 
2005 đến giai đoạn 2011 - 2015 thì khoảng cách chênh lệch nhiệt độ tăng lên 0,4 oC. Có sự biến 
động về nhiệt độ cao nhất, nhiệt độ cao nhất giai đoạn 2000 - 2005 là 18,1 oC và giá trị này đo được 
trong giai đoạn 2011 - 2015 là 18,9 oC sự chênh lệch lên đến 0,9 oC. Vì vậy, cần phải có chiến lược để 
quản lý duy trì mảng xanh và phát triển bền vững cho Đà Lạt. 
 Hình 1: Ảnh vệ tinh về mật độ nhà kính tại phường 12, thành phố Đà Lạt năm 2015 (a) và 2018 (b) 
Ghi chú: Màu đỏ: nhà kính; màu tím; màu xanh: thực vật và đất trồng; màu tím: khu dân cư 
(Theo Phạm Hữu Giàu , 2019) 
Bảng 1: Diện tích phân bổ đất tại phường 12, Đà Lạt 
Tên đối tượng Diện tích năm 2015 (ha) Diện tích năm 2018 (ha) 
Nhà kính 193,86 392,58 
Dân cư 73,44 147,96 
Thực vật và đất trống 958,86 752,76 
(a) 
354 
Theo Bảng 1 ta thấy, diện tích nhà kính tăng từ 193,86 ha (năm 2015) lên 392 ha (năm 2018), tăng 
102,51%, diện tích dân cư tăng từ 73,4 ha lên 147,96 ha, tăng 102,51%. Diện tích thảm thực vật và 
đất trống giảm từ 958,86 ha xuống 752,76 ha, giảm 21,49%. Vậy nhà kính là đối tượng có phần 
trăm tăng diện tích cao nhất (tăng 198,72 ha). Diện tích nhà kính trong khu vực phần lớn được 
chuyển đổi từ nông nghiệp truyền thống (không sử dụng nhà kính), một phần từ việc phá rừng 
làm nhà kính. Việc chuyển đổi không kiểm soát lớp phủ đất từ ề mặt thẩm thấu sang không 
thấm, làm ảnh hưởng đáng kể đến sự thống nhất của cả hai môi trường tự nhiên và nhân tạo. 
Phát triển nhà kính trong khu vực làm tăng tần suất và cường độ của dòng chảy tràn và làm giảm 
chất lượng nước. 
3.1.2 Năng suất hoa cúc qua các vụ mùa 
Kết quả điều tra trong 3 năm gần đây cho thấy, canh tác hoa cúc tại Đà Lạt gặp khá nhiều khó 
khăn. Năng suất gieo trồng chỉ đạt 20 - 70%. Rõ nhất là vụ mưa năm 2019 và 2020 năng suất bị 
giảm từ 55 – 80%, nhiều hộ phải nhổ bỏ hết ruộng vì bệnh hại gây nên. 
Bảng 2: Năng suất hoa cúc qua các vụ (cây/ha) 
Năm 
Vụ mưa Vụ khô 
Năng suất (cây/ha) Thiệt hại (%) Năng suất (cây/ha) Thiệt hại (%) 
Năm 2018 304.000 ± 38470,77 20 – 30 300.000 ± 28284,27 20 – 35 
Năm 2019 200.000 ± 84852,81 40 – 60 120.000 ± 101980,4 60 - 80 
Năm 2020 - - 216.000 ± 82945,77 40 - 60 
Ghi chú: Số cây con trồng là 400.000 cây/ha 
3.1.3 Tình hình sử dụng thuốc trên cây hoa cúc tại Đà Lạt 
Bảng 3: Số lần sử dụng thuốc trên cây hoa cúc tại phường 19, Đà Lạt (lần/vụ) trồng trong nhà kính 
Năm Số lần phun thuốc sâu Số lần phun thuốc bệnh Ghi chú 
Vụ mưa Vụ khô Vụ mưa Vụ khô 
Năm 2018 15 30 25 20 Nông dân thường trộn thuốc 
sâu và bệnh để phun Năm 2019 30 40 30 40 
Năm 2020 45 45 45 45 
Ghi chú: Vụ hoa cúc kéo dài từ 3,0-3,5 tháng 
Do bị sâu, bệnh hại tấn công gây hại nặng nên nông dân đã phải phòng trừ liên tục. Tuy thời gian 
từ khi trồng cho đến khi thu hoạch chỉ có 3,0 – 3,5 tháng nhưng nông dân phải phun từ 15 – 45 lần. 
Hầu hết nông dân thường kết hợp thuốc trừ sâu và trừ bệnh cho mỗi lần phun. Số liệu ở Bảng 3 cho 
thấy số lần phun thuốc trên cây hoa cúc rất cao biến động từ 15 - 45 lần/vụ. Ở năm 2018, số lần 
phun thuốc trừ sâu cao hơn thuốc trừ bệnh còn trong vụ khô số lần phun thuốc trừ bệnh cao hơn so 
355 
với phun thuốc trừ sâu. Tuy nhiên ở những năm sau, số lần phun thuốc bệnh tăng lên rõ rệt và 
không có sự khác nhau giữa vụ mưa và vụ khô. Điều này cho thấy, tình hình bệnh hại trên cây hoa 
cúc trong 3 năm gần đây tăng lên cao so với trước. Số lần phun thuốc sâu và thuốc bệnh của năm 
2019 và 2020 cũng tăng lên hơn hẳn so với năm 2018. 
2.1.4 Sử dụng phân bón 
Bảng 4: Lượng phân bón sử dụng cho cây hoa cúc (tấn/ha) 
Năm Tổng lượng phân 
(tấn/ha) 
Phân hóa học Phân sinh học, phân hữu cơ 
Lượng (tấn/ha) Tỷ lệ (%) Lượng (tấn/ha) Tỷ lệ (%) 
Năm 2018 10,8 ± 2,39 2,8 ± 0,84 25,92 8,0 ± 2 74,07 
Năm 2019 14,2 ± 1,48 4 ± 1,58 28,16 10,2 ± 1,48 71,83 
Năm 2020 14,8 ± 2,17 4,8 ± 0,84 32,43 10,0 ± 1,41 67,56 
Theo Bảng 4 lượng phân bón tăng theo từng năm lượng phân tăng từ 10,8 lên 14,8 tấn/ha. Lượng 
phân hóa học tăng từ 2,8 tấn/ha lên 4,8 tấn/ha, tăng 171,42%, lượng phân hữu cơ tăng từ 8,0 lên 
10,0 tăng 125%. Điều này cho thấy nông dân đã đầu tư rất nhiều cho sản xuất hoa cúc. 
2.1.5 Các biện pháp canh tác khác 
Các biện pháp canh tác như vệ sinh đồng ruộng trước khi gieo trồng, tiêu hủy tàn dư cây bị bệnh 
đúng cách, luân canh cây trồng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nói chung 
và canh tác hoa cúc nói riêng. Kết quả điều tra cho thấy, hầu hết nông dân trồng hoa cúc đều 
thực hiện vệ sinh đồng ruộng, thu gom tàn dư trước khi trồng. Tuy nhiên, trong mỗi vụ, các cây bị 
bệnh được nông dân nhổ bỏ nhưng chỉ để trên đồng, nên đây lại là nguồn lây lan cho cây khỏe. 
Chỉ khoảng 60% nông dân nhổ bỏ và chôn vào các hố. Đà Lạt là chuyên canh hoa, rau của các 
tỉnh phía Nam và cả nước, vì vậy, việc luân canh cây trồng hầu như ít được quan tâm. Kết quả 
điều tra cho thấy, nông dân hầu như không luân canh cây trồng mà chuyên canh liên tục trong 
nhiều năm một loại cây trồng, cộng với việc chuyển vụ liên tục, không cho đất nghỉ giữa các vụ 
nên sâu, bệnh hại luôn có nguồn thức ăn và ký chủ để sinh trưởng, phát triển và gây hại nặng 
đến năng suất cây trồng. 
Bảng 5: Tình hình thực hiện các biện pháp canh tác khác 
Biện pháp Số hộ đi u tra Số hộ thực hiện Tỷ lệ (%) 
Vệ sinh đồng ruộng trước khi gieo trồng 15 15 100 
Tiêu hủy tàn dư đúng cách 15 9 60 
Luân canh cây trồng 15 0 0 
Cho đất nghỉ đúng cách 15 4 26,6 
356 
3.2. Tình hình sâu bệnh hại tại địa phương 
3.2.1 Thành phần sâu, bệnh hại trên hoa cúc tại Đà Lạt 
Năm 2019 và 2020, đã thu thập được 5 loài sâu hại 10 bệnh hại trên cây hoa cúc ở vùng Đà Lạt. 
Trong đó sâu hại hầu hết là sâu chích hút và dòi đục lá. Bọ tr , nhện đỏ và dòi đục lá là sâu hại phổ 
biến trên cây hoa cúc ở Đà Lạt. Trong số 10 bệnh hại, có 7 bệnh do nấm, 2 bệnh do vi khuẩn và 1 
bệnh do virus (Bảng 6). Các bệnh hại chủ yếu phổ biến và gây hại nặng trên cây hoa cúc là bệnh 
đốm đen, đốm vòng và bệnh sọc thân do virus. Kết quả điều tra năm 2005 của Nguyễn Kim Vân [3] 
cho biết, trên cây hoa cúc ở Hà Nội và vùng phụ cận có 11 bệnh nấm, 1 bệnh vi khuẩn, 1 bệnh virus. 
Các bệnh hại chủ yếu phổ biến trên cây hoa cúc là và bệnh đốm đen lá, bệnh gỉ sắt, héo gốc mốc 
trắng, héo vàng, héo xanh vi khuẩn và bệnh thán thư (Bảng 3). Bệnh hại do virus Tomato spotted 
không thấy trong nghiên cứu của tác giả. 
Bảng 6: Thành phần sâu, bệnh hại chính trên cây hoa cúc tại Đà Lạt 
Tên thường gọi Tên khoa học Mức độ phổ biến 
Sâu hại 
1. Dòi đục lá Lyriomiza sp. +++ 
2. Rệp muội Myzuss persicae Sulzer ++ 
3. Bọ phấn trắng Bemisia tabaci ++ 
4. Bọ tr Frankliniella occidentalis +++ 
5. Nhện đỏ Tetranichus sp. +++ 
Bệnh hại 
1. Bệnh lở cổ rễ Rhizoctonia solani + 
2. Bệnh gỉ sắt Puccinia chrysanthemi ++ 
3. Bệnh phấn trắng Oidium chrysanthemi ++ 
4. Bệnh đốm vòng Alternaria sp. +++ 
5. Bệnh đốm đen Curvularia sp +++ 
6. Bệnh thán thư Colletotrichum chrysanthemi ++ 
7. Bệnh héo vàng Fusarium sp. ++ 
8. Bệnh héo xanh vi khuẩn Ralstonia solani + 
9. Bệnh khô lá Aphelenchoides ritzemabosi ++ 
10. Bệnh sọc thân Tomato spotted wilt +++ 
Ghi chú: +: Tỷ lệ bệnh 30%. 
357 
4 KẾT LUẬN 
Hoa cúc là một trong những cây trồng chính của thành phố Đà Lạt. Trong một số năm gần đây, hoa 
cúc được chuyên canh trong nhà kính. Tuy nhiên, sâu bệnh hại vẫn làm giảm đáng kể năng suất, 
cá biệt năm 2019, nhiều hộ nông dân gần như mất trắng. Có 15 loài dịch hại chinh trên cây hoa cúc 
tại Đà Lạt. Trong đó, bọ tr , nhện đỏ, ruồi đục lá, bệnh đốm đen, đốm vòng và bệnh sọc thân do 
virus là những dịch hại chính. Cần có những biện pháp quản lý phù hợp các loài dịch hại này để 
thúc đẩy sản xuất bền vững cây hoa cúc cho thành phố Đà Lạt. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Phạm Hữu Giàu (2019). Ứng dụng GIS và viễn thám để đánh giá sự gia tăng diện tích nhà 
kính tại khu vực phường 12, TP. Đà lạt, Lâm Đồng. Báo cáo cuối kỳ, Đại học Quốc gia TP. Hồ 
Chí Minh, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên. 
[2] Phạm Hồng Hải (2017). Thích ứng với biến đổi khí hậu trong trồng trọt của người dân thành 
phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng: Nghiên cứu trường hợp tại phường 7. Tạp chí Khoa học Đại học 
Đà Lạt Tập 7, Số 4, 2017 509–531. 
[3] Nguyễn Kim Vân (2006). Bệnh hại cây hoa Lan, Hồng, Cúc tại vùng Hà Nội và phụ cận năm 
2005. Tạp chí Bảo vệ thực vật, số 4 năm 2006, trang 25-28. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_san_xuat_va_sau_benh_hai_tren_cay_hoa_cuc_tai_tha.pdf