Thực trạng nhu cầu nhận thức của sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc
Tóm tắt: Đánh giá thực trạng nhu cầu nhận thức (NCNT) của sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây
Bắc thông qua 120 sinh viên được khảo sát. Kết quả cho thấy, để thỏa mãn NCNT, trước hết, sinh viên chú trọng đến việc trang bị kiến thức môn học; sau đó đến những kiến thức liên quan đến khả năng dạy học. So sánh NCNT của sinh viên giữa một số khoa, giữa nam và nữ, giữa các khóa học khác nhau có sự khác nhau.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng nhu cầu nhận thức của sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng nhu cầu nhận thức của sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc
kiến thức chuyên môn mà cần phải có nhiều kiến thức liên quan. Đi vào so sánh giữa các khoa, giới tính và khóa học cho thấy: Giữa Khoa Ngữ văn và Khoa Toán - Lý - Tin có sự chênh lệch rõ rệt trong từng tiêu chí mà sinh viên đã làm hoặc chưa làm để thoả mãn NCNT. Khi thực hiện các nội dung chúng tôi đưa ra, sinh viên Khoa Ngữ văn về cơ bản lựa chọn đã làm cao hơn so với khoa Toán - Lý - Tin. Tiêu chí đầu tiên “Đi học đầy đủ, chuyên cần”, có 83,3% sinh viên Khoa Ngữ văn đã làm, 16,7% là chưa làm; trong khi đó với sinh viên Khoa Toán - Lý - Tin chỉ có 60% sinh viên đã làm và 40% là chưa làm. Cũng tương tự như vậy, “Học ngoại ngữ, tin học”, có 63,3% sinh viên Khoa Ngữ văn đã làm, 36,77% chưa làm, sinh viên Khoa Toán - Lý - Tin có 25% đã làm và 75% chưa làm. “Không sử dụng tài liệu trong giờ thi, giờ kiểm tra”, sinh viên Khoa Ngữ văn có 70% đã làm, 30% chưa làm; sinh viên Khoa Toán - Lý - Tin 45% đã làm, 55% chưa làm. Tuy nhiên, có một số tiêu chí sinh viên của cả hai khoa có sự đồng nhất về thứ bậc lựa chọn. Tiêu chí đi học đầy đủ, chuyên cần cả sinh viên Khoa Ngữ văn và khoa Toán - Lý - Tin đều lựa chọn đã làm ở mức cao nhất; hay nội dung “Bổ sung thêm các kiến thức về tâm lí học sinh phổ thông” sinh viên cả hai khoa đều lựa chọn đã làm ở mức thấp nhất. Như vậy, biểu hiện và mức độ NCNT của sinh viên giữa hai khoa có một vài nội dung đồng nhất, về cơ bản là có sự khác biệt. Sinh viên Khoa Ngữ văn hay Khoa Toán - Lý - Tin đều có đặc trưng nghề nghiệp là giống nhau. Họ học để trở thành những giáo viên tham gia giảng dạy ở các trường phổ thông. Đối với mỗi giáo viên, muốn dạy tốt phải có tri thức vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, khả năng giao tiếp phù hợp với từng giai đoạn lứa tuổi, phải tổ chức tốt các hoạt động. Chính đặc trưng nghề nghiệp này mà cả sinh viên Khoa Ngữ văn và Khoa Toán - Lý - Tin có những điểm tương đồng trong mức độ lựa chọn cho từng tiêu chí. Bên cạnh những điểm tương đồng thì sự chọn của sinh viên hai khoa trong từng tiêu chí có sự 52 khác biệt rõ rệt, điều này là do đặc điểm của hai khoa khác nhau nên lựa chọn có sự khác nhau. Sinh viên Khoa Ngữ văn chủ yếu là nữ, sinh viên Khoa Toán - Lý - Tin chủ yếu là nam. Chính do yếu tố giới tính này làm cho sinh viên nam và nữ lựa chọn các tiêu chí khác nhau có sự khác nhau. Tiếp tục so sánh giữa nam và nữ về biểu hiện và mức độ NCNT chúng tôi cũng thấy có sự khác biệt. Trong hầu hết các tiêu chí, sinh viên nữ lựa chọn đã làm cao hơn hẳn so với sinh viên nam. Trong các nghiên cứu cho thấy, nữ sinh viên mang những nét đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam là hay lam hay làm, chịu thương chịu khó, cần cù, sáng tạo. Chính đặc trưng này làm cho NCNT của các nữ sinh viên cao hơn hẳn so với nam sinh viên. Để làm rõ hơn về bức tranh chung NCNT của sinh viên, chúng tôi tiến hành so sánh giữa sinh viên năm thứ nhất và sinh viên năm thứ ba. NCNT của sinh viên ở hai khóa khác nhau là có sự khác nhau nhưng không đáng kể. Về cơ bản, việc lựa chọn các nội dung ở mức đã làm có sự tương đồng giữa hai khóa. Tuy nhiên, có một số nội dung lại có sự khác biệt cơ bản trong việc lựa chọn đã làm hay chưa làm của sinh viên như: Tham gia nghiên cứu khoa học, tích cực rèn luyện phương pháp giảng dạy bộ môn. Sự khác nhau này phù hợp thực tiễn. Sinh viên K56 là sinh viên năm thứ nhất, các em chưa được tham gia làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp khoa hay cấp trường, chưa được học các học phần liên quan đến phương pháp giảng dạy bộ môn nên lựa chọn đã làm ở hai nội dung này thấp hơn hẳn sinh viên K54. Ngược lại sinh viên K54 là sinh viên năm thứ ba, các em đã được tham gia làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp khoa hoặc cấp trường, đã được học một học phần về phương pháp giảng dạy bộ môn, đã đi thực hành phổ thông, kiến tập nên đã tích cực rèn luyện phương pháp giảng dạy cao hơn hẳn so với sinh viên K56 là điều dễ hiểu. NCNT của sinh viên giữa các khoa khác nhau, giới tính khác nhau, khóa học khác nhau là có sự khác nhau. Sự khác nhau đó là do đặc trưng của từng khoa, từng giới và từng khóa học. Ghi chú: 1- Nhóm nhu cầu nhận thức về trang bị kiến thức chuyên môn; 2- Nhóm nhu cầu nhận thức về kiến thức liên quan đến khả năng dạy học; 3- Nhóm những nhu cầu nhận thức về các lĩnh vực khác 0 10 20 30 40 50 60 70 80 1 2 3 Biểu đồ: NCNT của sinh viên sƣ phạm Trƣờng ĐHTB Đã làm Chưa làm 53 2.2. Thực trạng nhu cầu nhận thức của sinh viên biểu hiện ở mặt thái độ Bảng 2. Thực trạng nhu cầu nhận thức biểu hiện ở mặt thái độ của sinh viên TT Các việc A1 A2 A1 (%) A2 (%) 1 Tham gia vào các hoạt động học tập Tích cực Thụ động 33 67 2 Hoàn thành nhiệm vụ học tập Tự giác Bắt buộc 37 63 3 Ý chí vượt khó trong học tập Nỗ lực Thiếu nỗ lực 54 46 4 Thái độ đối với việc thi cử Nghiêm túc Thiếu nghiêm túc 52 48 Kết quả khảo sát qua phiếu điều tra cho thấy: Khi tham gia vào các hoạt động học tập và khi hoàn thành các nhiệm vụ học tập, đa số sinh viên còn thụ động, do giảng viên bắt buộc, tính tích cực và tinh thần tự giác chưa cao. Tuy nhiên ý chí vượt khó trong học tập và thái độ với việc thi cử lại được nhiều sinh viên cho là nỗ lực và nghiêm túc nhưng cũng không cao hơn đáng kể so với số sinh viên thiếu nỗ lực trong học tập và thiếu nghiêm túc trong thi cử. Khi tham gia vào các hoạt động học tập, sinh viên Khoa Toán - Lý - Tin và sinh viên Khoa Ngữ văn có tính tích cực và thụ động ngang nhau (tích cực: 33%, thụ động: 67%); giữa nam và nữ sự chênh lệch đáng kể, sinh viên nam tích cực học tập cao hơn so với sinh viên nữ (42% so với 29%); sinh viên năm thứ nhất cũng biểu hiện tính tích cực trong học tập cao hơn hẳn so với sinh viên năm thứ ba (47% so với 20%). Sinh viên nữ thường hay lam hay làm, chịu thương chịu khó nhưng khi tham gia vào hoạt động học tập ít mang tính chủ động như sinh viên nam. Điều này có thể lí giải: Sinh viên nữ thường có sức ì lớn, chịu khó học nhưng lại thường chờ đợi giảng viên nhắc nhở mới học. Sinh viên nam thường ham chơi hơn nhưng khi đã tham gia vào hoạt động học tập là tích cực, chủ động lĩnh hội kiến thức, kĩ năng. Sinh viên năm thứ nhất mới bước vào môi trường đại học, với kiến thức rộng lớn, với cách học hoàn toàn khác biệt với cách học ở phổ thông là đòi hỏi tính tích cực, tự giác cao, tự học, tự nghiên cứu. Chính vì vậy, sinh viên phải tích cực học tập mới có thể làm quen được với môi trường học tập ở đại học. Sinh viên năm thứ ba đã quen với môi trường học tập, với cách học ở đại học, quen với yêu cầu của các giảng viên nên thường chủ quan, thụ động hơn so với sinh viên năm thứ nhất. Việc hoàn thành nhiệm vụ học tập, thái độ của sinh viên cũng tương tự như khi tham gia vào các hoạt động học tập khác đó là: Ở mức tự giác sinh viên Khoa Toán - Lý - Tin cao hơn sinh viên Khoa Ngữ văn, sinh viên nam cao hơn sinh viên nữ, sinh viên năm thứ nhất cao hơn sinh viên năm thứ ba. Sinh viên nam tích cực tham gia vào hoạt động học tập nhiều hơn thì tự giác hoàn thành nhiệm vụ học tập cũng nhiều hơn. Tương tự như vậy, sinh viên năm thứ nhất tích cực tham gia vào hoạt động học tập nhiều hơn thì tự giác hoàn thành nhiệm vụ học tập cũng nhiều hơn. Hai nội dung: Ý chí vượt khó trong học tập và thái độ đối với việc thi cử thì sinh viên giữa các khoa, giữa nam và nữ, giữa năm thứ nhất và năm thứ ba có sự chênh lệch nhưng không đáng kể. Đặc biệt, thái độ đối với việc thi cử, sinh viên năm thứ nhất có số sinh viên 54 lựa chọn mức độ nghiêm túc là 57% bằng với sinh viên năm thứ ba. Sinh viên năm thứ nhất mới vào trường, hoạt động thi cử mới chỉ diễn ra một học kì nhưng đã có rất nhiều sinh viên có thái độ thiếu nghiêm túc trong thi cử. Đây là điều đáng lo ngại đối với sinh viên, đặc biệt là sinh viên sư phạm. Nhà trường, giảng viên, các tổ chức chính trị xã hội cần nâng cao nhận thức cho sinh viên về vấn đề này. Qua quá trình phân tích trên cho thấy: Trong các sinh viên được nghiên cứu, đa số sinh viên còn thụ động trong việc tham gia hoạt động học tập, chưa tự giác trong việc hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhiều sinh viên thiếu nỗ lực ý chí trong học tập, đặc biệt có tới 48% sinh viên có thái độ thiếu nghiêm túc trong việc thi cử. Điều này cũng phù hợp với NCNT biểu hiện ở mặt nhận thức và phương thức thoả mãn NCNT của sinh viên. Nếu sinh viên thực sự có NCNT cao và NCNT đã trở nên bền vững, ổn định thì sẽ sẵn sàng tham gia mọi hoạt động học tập do nhà trường, lớp học tổ chức vì thông qua các hoạt động đó, họ sẽ bổ sung, hoàn thiện được nhiều những thiếu hụt về kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp, để phát triển bản thân đáp ứng tốt nhất yêu cầu của nghề nghiệp. 2.3. Thực trạng nhu cầu nhận thức của sinh viên biểu hiện ở mặt hành động Trong phần trình bày về những NCNT của sinh viên đã được họ ý thức, kết quả cho thấy hệ thống nhu cầu này khá phong phú và đa dạng về sự cần thiết và mong muốn thỏa mãn. Sinh viên trước hết có NCNT về hệ thống tri thức khoa học, sau đó đến các tri thức về kĩ năng dạy học. Tuy nhiên những nhu cầu đó đã được động cơ hóa đến mức nào? Kết quả thu được thể hiện ở Bảng 3. Bảng 3. Biểu hiện nhu cầu nhận thức của sinh viên về mặt hành động TT Các việc Điểm TB Thứ hạng 1 Dành thời gian để nghiên cứu môn học 2,0 3 2 Giải quyết một vấn đề khó 2,2 1 3 Đọc thêm tài liệu tham khảo 1,9 4 4 Trong giờ học giảng viên đưa ra tình huống có vấn đề và kích thích sự sáng tạo của tập thể 2,1 2 5 Đặt câu hỏi về nội dung bài học 1,8 5 6 Trao đổi ý kiến với thầy/cô và nội dung ngoài kiến thức chuyên môn 1,7 6 Kết quả thống kê ở Bảng 3 cho thấy: Sinh viên thường xuyên đưa ra ý kiến trong những giờ học, những nội dung môn học mà giảng viên đưa ra tình huống có vấn đề và kích thích sự sáng tạo của tập thể. Những giờ học như vậy, sinh viên thường thích, hào hứng và trăn trở suy nghĩ để tìm ra câu trả lời đúng. Ở trên lớp cũng như ngoài giờ học trên lớp, sinh viên hiếm khi đặt câu hỏi hay trao đổi với giảng viên về nội dung môn học. Lý do chủ yếu mà sinh viên đưa ra là sợ các thầy/cô giáo quá bận, có ít thời gian rảnh rỗi hoặc không biết cách tiếp cận với thầy/cô như thế nào cho đúng. 55 Biểu hiện NCNT của sinh viên về mặt hành động giữa Khoa Ngữ văn và Khoa Toán - Lý - Tin có sự chênh lệch không đáng kể về mặt định lượng và thứ hạng. Sinh viên cả hai khoa đều thích giải quyết những vấn đề đòi hỏi sự thông minh, nhanh trí và những giờ học đòi hỏi phải có sự động não. Như vậy, sinh viên thích sự khám phá, tìm tòi tri thức để thỏa mãn NCNT của bản thân. So sánh giữa nam và nữ cũng cho kết quả tương tự. Tuy nhiên, sinh viên nam thích những vấn đề đòi hỏi sự thông minh, nhanh trí và những giờ học đòi hỏi có sự động não cao hơn so với sinh viên nữ. Điều này cũng phù hợp với đặc điểm tâm lý của hai giới. Nữ sinh viên thường cần cù, chịu khó, tập trung làm tốt những yêu cầu do giáo viên đặt ra. Sinh viên nam thường thích làm những việc thể hiện khả năng của bản thân, thích khám phá, sáng tạo. Bên cạnh đó, NCNT biểu hiện ở mặt hành động của hai giới có sự tương đồng là: Cả hai giới đều hiếm khi trao đổi hay hỏi ý kiến giảng viên về nội dung bài học cả trong và ngoài giờ lên lớp. NCNT biểu hiện ở mặt hành động của sinh viên năm thứ nhất và sinh viên năm thứ ba có điểm tương đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt. Khi được hỏi “Theo bạn, sinh viên sư phạm hiện nay có đành nhiều thời gian để nghiên cứu môn học hay không?” thì sinh viên cả hai khóa có điểm số tương đương nhau (2,0), nhưng thứ hạng hoàn toàn khác nhau (năm thứ nhất xếp tiêu chí này ở vị trí thức tư, năm thứ ba xếp tiêu chí này ở vị trí thứ hai). Sinh viên cả hai khóa đều có nhu cầu giải quyết những vấn đề đòi hỏi sự thông minh, nhanh trí. Nhu cầu này được xếp ở vị trí cao nhất với số điểm tương đương nhau là 2,2. Ở các tiêu chí còn lại, sinh viên giữa hai khóa khác nhau có NCNT ở mức độ khác nhau nhưng không đáng kể. 3. Kết luận NCNT của sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây Bắc khá đa dạng và phong phú. Tất cả các NCNT được nêu ra đều xuất phát từ yêu cầu của nghề nghiệp tương lai, nhưng trước hết xuất phát từ yêu cầu của hoạt động nhận thức nghề nghiệp trong nhà trường. Sinh viên nhận thức khá rõ sự thiếu hụt kiến thức cũng như những kĩ năng của bản thân trong nhiều vấn đề có liên quan đến nghề nghiệp sắp tới của họ và họ mong muốn được bổ sung, hoàn thiện. Biểu hiện của NCNT thông qua mặt nhận thức, mặt thái độ và mặt hành vi. Mặt nhận thức: Nhóm NCNT về kiến thức chuyên môn được sinh viên coi trọng hơn cả, sau đó đến nhóm NCNT về các lĩnh vực khác có liên quan và cuối cùng là nhóm các NCNT về trang bị kiến thức cho khả năng dạy học. Sinh viên chưa nhận thức đầy đủ được rằng cần thiết phải đảm bảo sự cân đối giữa khả năng được trang bị kiến thức theo môn học và khả năng dạy học. Sinh viên Khoa Ngữ văn có biểu hiện cao hơn sinh viên Khoa Toán - Lý - Tin, sinh viên nữ có biểu hiện cao hơn sinh viên nam; sinh viên K54 có biểu hiện cao hơn sinh viên K56. Mặt thái độ: Đa số sinh viên còn thụ động khi tham gia các hoạt động học tập và hoàn thành các nhiệm vụ học tập khi có sự bắt buộc từ phía giảng viên, tính tích cực và tinh thần tự giác chưa cao. Tuy nhiên, ý chí vượt khó trong học tập và thái độ với việc thi cử lại được nhiều sinh viên cho là có sự nỗ lực và nghiêm túc. Sinh viên giữa các khoa, giữa nam và nữ, giữa năm thứ nhất và năm thứ ba có sự chênh lệch nhưng không đáng kể. 56 Mặt hành động: Ở mặt này, sinh viên Khoa Ngữ văn biểu hiện sự tương đồng với sinh viên Khoa Toán - Lý - Tin, sinh viên nam có biểu hiện cao hơn sinh viên nữ, khóa 56 có biểu hiện cao hơn sinh viên khóa 54. Nhìn chung, có sự khác nhau về NCNT giữa các khoa, giới tính và khóa học khi được nghiên cứu. Sự khác nhau đó là do đặc trưng của từng khoa, từng giới và từng khóa học. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Ngọc Bích (2001). Tâm lý học nhân cách một số vấn đề lí luận. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội. [2] Lê Thị Bừng (Chủ biên) (2017). Các thuộc tính tâm lý điển hình của nhân cách. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội. [3] I.X Con (GS. Phạm Minh Hạc, Ngô Hào Hiệp dịch) (1987). Tâm lý học thanh niên. Nhà xuất bản Trẻ TP HCM. [4] Phan Thị Vóc (2012). Nhu cầu thành đạt trong học nghề của sinh viên Trường Đại học Tây Bắc. Luận văn Thạc sĩ. [5] Nguyễn Quang Uẩn (Chủ biên) (2003). Tâm lý học đại cương. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. TAY BAC UNIVERSITY STUDENTS’ NEEDS IN KNOWLEDGE ACQUISITION Phan Thi Voc Tay Bac University Abstract: After assessing 120 Tay Bac University students about their needs in knowledge acquisition, the result shows that in order to satisfy their needs, students should focus on equipping them with certain knowledge of their specific major. There are some differences in the needs of knowledge acquisition between male and female students; among faculties; and among different courses. Keywords: Attitude, awareness, behavior, cognitive demand.
File đính kèm:
- thuc_trang_nhu_cau_nhan_thuc_cua_sinh_vien_su_pham_truong_da.pdf