Thực trạng giáo viên Mầm non sử dụng phương pháp Montessori để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ từ 24-36 tháng tại trường Mầm non Tư thục Montessori, phường Thảo Điền, Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh

Giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ là một trong

những nhiệm vụ quan trọng của giáo viên mầm non

(GVMN) khi dạy trẻ 24-36 tháng. Việc giáo dục kĩ năng

sử dụng vật thật bao hàm việc hướng dẫn cách sử dụng

vật thật, tác động giúp trẻ nắm được chức năng của

chúng, kết quả là trẻ có kĩ năng sử dụng vật thật trong

sinh hoạt hàng ngày; hình thành, hiểu được những quy

tắc, hành vi đơn giản trong xã hội,.

Hiện nay, nhiều giáo viên ở Trường Mầm non tư thục

Montessori (phường Thảo Điền, Quận 2, TP. Hồ Chí

Minh) vẫn thường đề ra những mục tiêu giáo dục trẻ kĩ

năng sử dụng vật thật và sử dụng phương pháp giáo dục

Montessori để thực hiện các mục tiêu này. Tất cả các giáo

viên của trường đều được đào tạo hoặc được tập huấn về

phương pháp Montessori. Tuy vậy, trong bất kì trường

học nào, giáo viên luôn có những mặt mạnh và hạn chế

trong quá trình vận dụng các phương pháp dạy học của

mình vì việc lựa chọn các biện pháp dạy học vẫn phụ

thuộc vào nhiều yếu tố như mục tiêu phát triển, khả năng

kết hợp các mục tiêu dạy học, điều kiện dạy học và cả

hình thức tổ chức dạy học.

Bài viết trình bày kết quả khảo sát thực trạng GVMN sử

dụng phương pháp Montessori nhằm giáo dục kĩ năng sử

dụng vật thật cho trẻ 24-36 tháng ở Trường Mầm non tư thục

Montessori, phường Thảo Điền, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

Thực trạng giáo viên Mầm non sử dụng phương pháp Montessori để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ từ 24-36 tháng tại trường Mầm non Tư thục Montessori, phường Thảo Điền, Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh trang 1

Trang 1

Thực trạng giáo viên Mầm non sử dụng phương pháp Montessori để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ từ 24-36 tháng tại trường Mầm non Tư thục Montessori, phường Thảo Điền, Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh trang 2

Trang 2

Thực trạng giáo viên Mầm non sử dụng phương pháp Montessori để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ từ 24-36 tháng tại trường Mầm non Tư thục Montessori, phường Thảo Điền, Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh trang 3

Trang 3

Thực trạng giáo viên Mầm non sử dụng phương pháp Montessori để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ từ 24-36 tháng tại trường Mầm non Tư thục Montessori, phường Thảo Điền, Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh trang 4

Trang 4

Thực trạng giáo viên Mầm non sử dụng phương pháp Montessori để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ từ 24-36 tháng tại trường Mầm non Tư thục Montessori, phường Thảo Điền, Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh trang 5

Trang 5

Thực trạng giáo viên Mầm non sử dụng phương pháp Montessori để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ từ 24-36 tháng tại trường Mầm non Tư thục Montessori, phường Thảo Điền, Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 3380
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng giáo viên Mầm non sử dụng phương pháp Montessori để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ từ 24-36 tháng tại trường Mầm non Tư thục Montessori, phường Thảo Điền, Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng giáo viên Mầm non sử dụng phương pháp Montessori để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ từ 24-36 tháng tại trường Mầm non Tư thục Montessori, phường Thảo Điền, Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh

Thực trạng giáo viên Mầm non sử dụng phương pháp Montessori để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ từ 24-36 tháng tại trường Mầm non Tư thục Montessori, phường Thảo Điền, Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh
 trạng tạo nên sự nhàm chán ở trẻ và đồng thời củng 
cố kĩ năng sử dụng vật thật ở trẻ. Tuy nhiên, 45% GVMN 
lựa chọn biện pháp này ở mức độ ít thường xuyên, hầu 
hết giáo viên đều cho rằng đây là biện pháp có ảnh hưởng 
trực tiếp đến kĩ năng sử dụng vật thật của trẻ nhưng do 
điều kiện vật chất của trường còn chưa đầy đủ, chưa đáp 
ứng được nhu cầu vật chất khi sử dụng biện pháp này. 
+ Biện pháp “Động viên, khích lệ trẻ” có tỉ lệ giáo 
viên lựa chọn ở mức độ 70% thường xuyên. Phần lớn 
GVMN cho rằng đây là biện pháp hỗ trợ nhằm kích 
thích, gây hứng thú cho trẻ. 
+ Biện pháp “Dùng lời hướng dẫn cách sử dụng” có 
40% GVMN lựa chọn ở mức độ thường xuyên. Các 
GVMN cho rằng biện pháp này giúp trẻ định hướng được 
những điều trẻ sẽ thực hiện trong suốt quá trình trẻ hoạt 
động. Tuy nhiên, vẫn còn 35% GVMN lựa chọn biện 
pháp này ở mức độ ít thường xuyên và không đạt hiệu 
quả cao do một số trẻ bất đồng ngôn ngữ với GVMN và 
GVMN ở trường mầm non tư thục Montessori cho rằng: 
“Trẻ ở độ tuổi này, GVMN cần hành động hơn là lời nói 
vì lúc này trẻ có thể tiếp nhận hình ảnh bên ngoài một 
cách dễ dàng hơn”. 
Để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ thông qua 
việc sử dụng phương pháp Montessori có hiệu quả thì việc 
lựa chọn và sử dụng hệ thống các biện pháp đóng vai trò 
quan trọng. Do đó, trước tiên phải có một hệ thống biện 
pháp phù hợp, đảm bảo tính khoa học và thực tiễn. Đồng 
thời, việc phối hợp linh hoạt, khéo léo giữa các biện pháp 
với nhau cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác này. Từ 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 142-146; 199 
145 
số liệu trên, có thể thấy GVMN đã lựa chọn sử dụng một số 
biện pháp tổ chức giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật theo 
phương pháp Montessori cho trẻ tương đối phù hợp. 
- Nội dung giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ 
24-36 tháng theo phương pháp Montessori: 
Trẻ ở giai đoạn này đã bắt đầu phải học cách tự lập, 
điều này đòi hỏi trẻ phải có kĩ năng sử dụng vật thật, cho 
nên những nội dung được thiết kế trong chương trình 
giảng dạy nhằm giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật tại lớp 
24-36 tháng luôn theo sát khả năng của từng trẻ và đi từ 
dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Nội dung giáo dục 
mà GVMN thường đề cập để rèn kĩ năng sử dụng vật thật 
cho trẻ được thể hiện ở bảng 3: 
Bảng 3 cho thấy, nội dung được GVMN lựa chọn 
thường xuyên nhất là nội dung giáo dục kĩ năng sử dụng 
những đồ dùng tự phục vụ bản thân (80%), còn nội dung ít 
được lựa chọn nhất là sử dụng công cụ lao động. Qua phỏng 
vấn về vấn đề này, cô P.T.T.A cho biết vì “khi trẻ có được 
những kĩ năng tự phục vụ bản thân, hoàn thiện được chính 
mình thì lúc đó trẻ sẽ làm tốt những việc khác như: sử dụng 
dụng cụ nhà bếp để chế biến thức ăn phục vụ cho trẻ và mọi 
người, sử dụng công cụ lao động để chăm sóc và bảo vệ 
thiên nhiên quanh trẻ”. Điều này, giúp trẻ cảm thấy thích 
thú, say sưa khi được trải nghiệm cùng chúng. 
Bên cạnh đó, để làm rõ hơn giáo dục kĩ năng sử dụng vật 
thật thuộc lĩnh vực giáo dục nào của phương pháp 
Montessori, cô L.K.C cho rằng “Việc giáo dục trẻ kĩ năng sử 
dụng vật thật thuộc lĩnh vực thực hành cuộc sống trong năm 
lĩnh vực giáo dục của phương pháp Montessori và nội dung 
giáo dục giúp cho trẻ luyện tập các kĩ năng sử dụng các vật 
thật xung quanh cuộc sống của trẻ để trẻ có thể tự phục vụ 
bản thân, giúp đỡ mọi người và bảo vệ môi trường xung 
quanh trẻ làm cho nó trở nên sạch đẹp hơn, hình thành và 
phát triển kĩ năng cho trẻ khi sử dụng các vật dụng được bày 
biện trên kệ. Ví dụ: qua hoạt động rót nước từ li này sang li 
kia, trẻ thao tác một cách nhịp nhàng mà không làm đổ nước 
ra ngoài hoặc không làm vỡ li; qua đó, trẻ đã có thể tự phục 
Bảng 3. Tổng hợp lựa chọn của GVMN về mức độ sử dụng các nội dung 
để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ 24-36 tháng 
STT Nội dung 
Tỉ lệ (%) 
Thường 
xuyên 
Ít 
thường xuyên 
Không 
thường xuyên 
1 
Sử dụng những đồ dùng tự phục vụ bản thân như: ăn 
uống, ngủ, vệ sinh, đi lại... 
80 20 0 
2 Sử dụng dụng cụ nhà bếp trong các giờ học ngoại khóa 55 45 0 
3 
Sử dụng công cụ lao động trong vườn trường hoặc trong 
hoạt động dã ngoại. 
35 65 0 
Bảng 4. Những khó khăn của GVMN khi giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật 
cho trẻ 24-36 tháng theo phương pháp Montessori 
STT Những khó khăn 
Tỉ lệ (%) 
Thường 
xuyên 
Ít 
thường xuyên 
Không 
thường xuyên 
1 Mất nhiều thời gian 60 40 0 
2 Thời gian cho hoạt động chưa đủ 0 0 0 
3 
Không biết cách kích thích trẻ động não, nên thường 
làm mẫu cho trẻ làm theo 
40 55 5 
4 Khả năng tiếp thu của trẻ không đồng đều 90 10 0 
5 
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên chưa 
đồng đều 
75 15 10 
6 Trình độ ngoại ngữ 45 40 15 
7 
Phụ huynh chưa quan tâm đúng mức đến việc giáo dục 
kĩ năng sử dụng vật thật của trẻ 
50 50 0 
8 Cơ sở vật chất còn hạn chế 30 70 0 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 142-146; 199 
146 
vụ bằng cách lấy nước từ bình cô rót sẵn để uống và có thể 
giúp bạn nhỏ hơn. Thông qua đó, cũng đã giáo dục trẻ được 
tính tự lập, cẩn thận, khéo léo, biết giúp đỡ người khác”. Điều 
này cho thấy, những nội dung giáo dục tại kệ thực hành cuộc 
sống rất thiết thực và gần gũi với đời sống của trẻ. Tại đây trẻ 
có thể tự mình sử dụng vật thật như: dao, thớt, đồ cài nút, 
khóa... một cách tự do, thoải mái, thỏa mãn nhu cầu của trẻ; 
dần dần phát triển cho trẻ kĩ năng sử dụng chúng ngày càng 
thành thạo hơn khi được luyện tập thường xuyên. 
2.2.3. Khó khăn của giáo viên mầm non khi sử dụng 
phương pháp Montessori để giáo dục kĩ năng sử dụng 
vật thật cho trẻ từ 24-36 tháng 
Trong quá trình tổ chức dạy học, GVMN còn gặp 
phải một số khó khăn nhất định. Những khó khăn này 
làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của trẻ về 
mọi mặt, đặc biệt là về mặt kĩ năng sử dụng vật thật. 
Bảng 4 cho thấy “Khả năng tiếp thu của trẻ không đồng 
đều” là khó khăn mà GVMN thường xuyên gặp trong việc 
giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ 24-36 tháng (90%). 
Điều này cũng dễ dàng nhận thấy qua quan sát, khả năng tập 
trung chú ý của trẻ chưa cao và số trẻ trong lớp chênh lệch 
nhiều về tháng tuổi gây khó khăn khi tổ chức giáo dục kĩ năng 
sử dụng vật thật cho trẻ, trong lớp những trẻ lớn tháng tuổi 
hơn sẽ chú ý và làm tốt hơn khi GVMN hướng dẫn. Mặc 
khác, đa số các trẻ ở trường mầm non tư thục Montessori đều 
là trẻ đến từ nhiều quốc gia, khả năng tiếp thu “tiếng Anh” 
của trẻ còn hạn chế, trẻ phải mất một khoảng thời gian dài 
mới thích nghi. Vì vậy, việc dạy học này của GVMN còn gặp 
nhiều khó khăn, trẻ không hiểu ngôn ngữ của cô dẫn đến trẻ 
không tập trung chú ý, thường không quan sát GVMN làm 
mẫu nên khả năng tiếp thu của trẻ sẽ không đồng đều. Chỉ có 
những trẻ học từ đầu năm hay tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ thì trẻ 
mới hứng thú lắng nghe GVMN hướng dẫn và làm đúng 
chức năng của vật thật; đối với những trẻ còn bất đồng ngôn 
ngữ, trẻ thường làm sai và chậm hơn các bạn khác. 
Do rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan mà 
các GVMN chưa có điều kiện bồi dưỡng thường xuyên để 
nâng cao trình độ hiểu biết về phương pháp Montessori; vì 
vậy, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của GVMN chưa đồng 
đều (75% GVMN lựa chọn mức độ thường xuyên khó khăn). 
Qua quan sát, khi tổ chức giáo dục kĩ năng sử dụng vật 
thật cho trẻ, GVMN đã dành thời gian quan sát, hướng dẫn 
và sửa sai cho từng trẻ vì họ cho rằng trẻ ở độ tuổi này các 
thao tác còn vụng về, chưa nhanh nhẹn, trẻ cần thời gian để 
rèn luyện nên GVMN đã mất nhiều thời gian cho hoạt động 
này. Vì vậy, 60% GVMN lựa chọn mức độ thường xuyên 
cho rằng mất nhiều thời gian để tổ chức giáo dục kĩ năng sử 
dụng vật thật cho trẻ khi sử dụng phương pháp Montessori. 
Về trình độ ngoại ngữ, qua điều tra được biết 45% GVMN 
lựa chọn mức độ thường xuyên còn hạn chế về trình độ tiếng 
Anh nên việc tiếp xúc với trẻ ban đầu còn gặp khó khăn do trẻ 
ở nhiều quốc gia nên nói nhiều ngôn ngữ khác nhau. GVMN 
tại trường Montessori ngoài việc nắm vững trình độ chuyên 
môn còn phải có khả năng giao tiếp tiếng Anh tốt thì mới hỗ trợ 
cho công tác giảng dạy tại trường đạt hiệu quả. 
Có 50% GVMN lựa chọn mức độ thường xuyên gặp 
khó khăn “Phụ huynh chưa quan tâm đúng mức đến việc 
giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật của trẻ”. Thực tế, cô 
P.T.T.A cho biết “Phụ huynh vì một vài nguyên nhân nên 
lơ là đến việc giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ, 
đặc biệt là phụ huynh Việt Nam thường cho rằng con còn 
quá nhỏ, chưa tự mình phục vụ bản thân, nên thường 
giao phó cho GVMN dạy trẻ trên lớp mà không kết hợp 
cùng GVMN thực hiện ở gia đình, họ cũng rất ít khi tham 
gia hoạt động với vật thật trên trường cùng trẻ”. 
Mặc dù điều kiện cơ sở vật chất, đồ dùng, vật thật có 
trang bị khá đầy đủ nhưng 30% GVMN vẫn lựa chọn mức 
độ thường xuyên khó khăn do cơ sở vật chất chưa đáp ứng 
yêu cầu để thực hiện tốt hoạt động này. Cụ thể, diện tích 
phòng học còn nhỏ, nên không đủ không gian để bày biện 
thêm vật thật lên kệ cho trẻ hoạt động, rất ít sử dụng đồ 
dùng bằng sành sứ, thủy tinh; vì thế GVMN rất khó để 
giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật. Điều này gây ảnh hưởng 
không nhỏ tới kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ. 
Có 40% GVMN lựa chọn thường xuyên gặp khó khăn 
khi “không biết cách kích thích trẻ động não nên thường 
làm mẫu cho trẻ làm theo”. Qua trao đổi, cô N.T.T cho 
biết “Kích thích trẻ động não ở lứa tuổi này là một vấn đề 
không dễ dàng thực hiện, vì trẻ rất hiếu động, vốn kinh 
nghiệm còn nghèo nàn nên GVMN thường xuyên làm 
mẫu cho trẻ thực hiện theo”. Theo quan điểm khảo sát, 
GVMN đã quá lạm dụng việc làm mẫu mà không để trẻ 
tự do hoạt động bằng cách thử - sai nhằm kích thích trẻ 
động não để trẻ tìm ra được cách làm phù hợp. 
Những khó khăn trên đã làm ảnh hưởng đến kết quả 
của việc sử dụng phương pháp Montessori giáo dục kĩ 
năng sử dụng vật thật cho trẻ từ 24-36 tháng tuổi. 
3. Kết luận 
Mặc dù nhận thức của GVMN về việc sử dụng phương 
pháp Montessori để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho 
trẻ ở mức cao nhưng hoạt động này vẫn còn gặp nhiều khó 
khăn khi sử dụng. GVMN vẫn còn can thiệp vào hoạt động 
của trẻ khi tổ chức thực hiện hay trong các hoạt động khác, 
giáo viên chưa tạo điều kiện cho trẻ được tham gia, cũng 
như chưa biết linh hoạt tổ chức hoạt động liên lớp. Điều này 
vô tình đã làm ảnh hưởng đến kết quả của việc giáo dục kĩ 
năng sử dụng vật thật cho trẻ. Thực trạng này sẽ là cơ sở để 
xây dựng các biện pháp giúp GVMN sử dụng phương pháp 
Montessori giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ 24-36 
tháng tuổi đạt kết quả cao; qua đó, phát triển nhân cách toàn 
diện cho trẻ, đặc biệt là kĩ năng sử dụng vật thật của trẻ. 
(Xem tiếp trang 199) 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 195-199 
199 
thu tri thức của người học sẽ mang lại những kết quả tốt 
đẹp trong quá trình dạy và học. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Little, D. (1991). Learner Autonomy and second/ 
foreign Language Learning. Dublin: Authentik. 
[2] Thái Duy Tuyên (2003). Dạy tự học cho sinh viên 
trong các nhà trường cao đẳng, đại học chuyên 
nghiệp. Chuyên đề Phương pháp dạy học cho học 
viên cao học, Đại học Huế. 
[3] Rindley, G. (1989). Assessing achievement in the 
learner-centered curriculum. Sydney: National 
Center for English Language Teaching and 
Research. 
[4] Đặng Xuân Hải (2007). Tính tự chủ và tự chịu trách 
nhiệm của giảng viên và của sinh viên trong đào tạo 
theo hệ thống tín chỉ. Tạp chí Giáo dục, số 175, tr 5-7. 
[5] Dominique Rabine-Bucknor (2010). Adult 
Teaching and Learning: Self Directed Learning, 
Application Paper, Colorado State University. 
[6] Henri Holec (1979). Autonomy and Foreign 
Language Learning, Council for Cultural 
Cooperation, Strasbourg (France). 
[7] Lâm Quang Thiệp (2008). Về việc áp dụng học chế 
tín chỉ trên thế giới và ở Việt Nam. Kỉ yếu Hội thảo 
khoa học, Trường Đại học Vinh. 
[8] Leslie Dickinson (1992). Learner Autonomy: 
Learner Training for Language Learning 
(Volume 2). Paperback - November. 
[9] Lưu Xuân Mới (2000). Lí luận dạy học đại học. 
NXB Giáo dục. 
[10] Nguyễn Thị Thu Huyền (4/2016). Vai trò của kĩ 
năng tự học (ngoài lớp học). Cổng thông tin điện tử 
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 
[11] Phil Banson (2005). Autonomy in language 
learning, Longman. 
[12] The glossary of Education Reform (2014). 
https://www.edglossary.org/teacher-autonomy/. 
[13] Vygotsky S.L.(2004). Imagination and Creativity in 
Childhood. Journal of Russian and East European 
Psychology, Vol. 42, No. 1, January-February, 
pp. 7-97, M.E. Sharpe, Inc. 
[14] Chính phủ (2012). Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 
13/6/2012 về việc Phê duyệt Chiến lược phát triển 
giáo dục 2011-2020. 
[15] Citation: Huitt, W. (1998). Critical thinking: An 
overview. Educational Psychology Interactive. 
Valdosta, GA: Valdosta State University. 
[16] De Bono, E. (1970). Lateral thinking: creativity step 
by step. Harper & Row, pp. 300. ISBN 0-14-
021978-1. 
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 
(Tiếp theo trang 179) 
Tài liệu tham khảo 
[1] Ban Thanh niên trường học (2007). Định hướng giá 
trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay. NXB 
Thanh niên. 
[2] Nguyễn Thanh Bình (2007). Giáo trình Giáo dục kĩ 
năng sống (dành cho sinh viên cao đẳng sư phạm). 
NXB Đại học Sư phạm. 
[3] Tăng Bình - Thu Huyền - Ái Phương (2012). Ứng 
xử sư phạm và giáo dục kĩ năng mềm trong nền giáo 
dục hiện nay. NXB Hồng Đức. 
[4] Lê Văn Chiến (2006). Kĩ năng sống dành cho bạn 
trẻ. NXB Trẻ. 
[5] Chu Văn Đức (2005). Giáo trình kĩ năng giao tiếp. 
NXB Hà Nội. 
[6] Hoàng Thị Hiền (2014). Giáo trình kĩ năng mềm 
- Tiếp cận theo hướng sư phạm tương tác. NXB Đại 
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 
[7] Huỳnh Văn Sơn (2013). Thử nghiệm một vài biện 
pháp phát triển kĩ năng mềm cho sinh viên đại học 
Sư phạm. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư 
phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số 50, tr 68-77. 
THỰC TRẠNG GIÁO VIÊN MẦM NON 
(Tiếp theo trang 146) 
Tài liệu tham khảo 
[1] Phạm Thị Mai Chi - Bùi Kim Tuyến - Lương Thị 
Bình - Phan Lan Anh (2005). Hướng dẫn hoạt động 
cho trẻ 1-3 tuổi. NXB Giáo dục TP. Hồ Chí Minh. 
[2] Ngọc Thị Thu Hằng (2014). Giới thiệu phương pháp 
giáo dục Montessori. Tạp chí Khoa học, Trường Đại 
học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, số 57, tr 125-139. 
[3] Ngô Hiểu Huy (2013). Phương pháp giáo dục 
Montessori - Phương pháp giáo dục tối ưu dành cho 
trẻ 0-6 tuổi. NXB Văn hóa - Thông tin. 
[4] Lý Lợi (2014). Phương pháp Giáo dục Montessori 
- Thời kì nhạy cảm của trẻ. NXB Đại học Sư phạm. 
[5] Maria Montessori (2008). Dạy con trước tuổi lên 3. 
NXB Lao động. 
[6] Patricia Giardiello (2014). Pioneers in early 
childhood education. Routledge, London and New 
York. 
[7] Rambusch Nancy Mccormick (1988). Dr. Montessori's 
own handbook. Schocken books, New York. 
[8] Aline D. Wolf. (1995). A parents' guide to the 
Montesssori classroom. Parent child press. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_giao_vien_mam_non_su_dung_phuong_phap_montessori.pdf