Thực trạng giáo viên Mầm non sử dụng phương pháp Montessori để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ từ 24-36 tháng tại trường Mầm non Tư thục Montessori, phường Thảo Điền, Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh
Giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của giáo viên mầm non
(GVMN) khi dạy trẻ 24-36 tháng. Việc giáo dục kĩ năng
sử dụng vật thật bao hàm việc hướng dẫn cách sử dụng
vật thật, tác động giúp trẻ nắm được chức năng của
chúng, kết quả là trẻ có kĩ năng sử dụng vật thật trong
sinh hoạt hàng ngày; hình thành, hiểu được những quy
tắc, hành vi đơn giản trong xã hội,.
Hiện nay, nhiều giáo viên ở Trường Mầm non tư thục
Montessori (phường Thảo Điền, Quận 2, TP. Hồ Chí
Minh) vẫn thường đề ra những mục tiêu giáo dục trẻ kĩ
năng sử dụng vật thật và sử dụng phương pháp giáo dục
Montessori để thực hiện các mục tiêu này. Tất cả các giáo
viên của trường đều được đào tạo hoặc được tập huấn về
phương pháp Montessori. Tuy vậy, trong bất kì trường
học nào, giáo viên luôn có những mặt mạnh và hạn chế
trong quá trình vận dụng các phương pháp dạy học của
mình vì việc lựa chọn các biện pháp dạy học vẫn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như mục tiêu phát triển, khả năng
kết hợp các mục tiêu dạy học, điều kiện dạy học và cả
hình thức tổ chức dạy học.
Bài viết trình bày kết quả khảo sát thực trạng GVMN sử
dụng phương pháp Montessori nhằm giáo dục kĩ năng sử
dụng vật thật cho trẻ 24-36 tháng ở Trường Mầm non tư thục
Montessori, phường Thảo Điền, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng giáo viên Mầm non sử dụng phương pháp Montessori để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ từ 24-36 tháng tại trường Mầm non Tư thục Montessori, phường Thảo Điền, Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh
trạng tạo nên sự nhàm chán ở trẻ và đồng thời củng cố kĩ năng sử dụng vật thật ở trẻ. Tuy nhiên, 45% GVMN lựa chọn biện pháp này ở mức độ ít thường xuyên, hầu hết giáo viên đều cho rằng đây là biện pháp có ảnh hưởng trực tiếp đến kĩ năng sử dụng vật thật của trẻ nhưng do điều kiện vật chất của trường còn chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được nhu cầu vật chất khi sử dụng biện pháp này. + Biện pháp “Động viên, khích lệ trẻ” có tỉ lệ giáo viên lựa chọn ở mức độ 70% thường xuyên. Phần lớn GVMN cho rằng đây là biện pháp hỗ trợ nhằm kích thích, gây hứng thú cho trẻ. + Biện pháp “Dùng lời hướng dẫn cách sử dụng” có 40% GVMN lựa chọn ở mức độ thường xuyên. Các GVMN cho rằng biện pháp này giúp trẻ định hướng được những điều trẻ sẽ thực hiện trong suốt quá trình trẻ hoạt động. Tuy nhiên, vẫn còn 35% GVMN lựa chọn biện pháp này ở mức độ ít thường xuyên và không đạt hiệu quả cao do một số trẻ bất đồng ngôn ngữ với GVMN và GVMN ở trường mầm non tư thục Montessori cho rằng: “Trẻ ở độ tuổi này, GVMN cần hành động hơn là lời nói vì lúc này trẻ có thể tiếp nhận hình ảnh bên ngoài một cách dễ dàng hơn”. Để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ thông qua việc sử dụng phương pháp Montessori có hiệu quả thì việc lựa chọn và sử dụng hệ thống các biện pháp đóng vai trò quan trọng. Do đó, trước tiên phải có một hệ thống biện pháp phù hợp, đảm bảo tính khoa học và thực tiễn. Đồng thời, việc phối hợp linh hoạt, khéo léo giữa các biện pháp với nhau cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác này. Từ VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 142-146; 199 145 số liệu trên, có thể thấy GVMN đã lựa chọn sử dụng một số biện pháp tổ chức giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật theo phương pháp Montessori cho trẻ tương đối phù hợp. - Nội dung giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ 24-36 tháng theo phương pháp Montessori: Trẻ ở giai đoạn này đã bắt đầu phải học cách tự lập, điều này đòi hỏi trẻ phải có kĩ năng sử dụng vật thật, cho nên những nội dung được thiết kế trong chương trình giảng dạy nhằm giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật tại lớp 24-36 tháng luôn theo sát khả năng của từng trẻ và đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Nội dung giáo dục mà GVMN thường đề cập để rèn kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ được thể hiện ở bảng 3: Bảng 3 cho thấy, nội dung được GVMN lựa chọn thường xuyên nhất là nội dung giáo dục kĩ năng sử dụng những đồ dùng tự phục vụ bản thân (80%), còn nội dung ít được lựa chọn nhất là sử dụng công cụ lao động. Qua phỏng vấn về vấn đề này, cô P.T.T.A cho biết vì “khi trẻ có được những kĩ năng tự phục vụ bản thân, hoàn thiện được chính mình thì lúc đó trẻ sẽ làm tốt những việc khác như: sử dụng dụng cụ nhà bếp để chế biến thức ăn phục vụ cho trẻ và mọi người, sử dụng công cụ lao động để chăm sóc và bảo vệ thiên nhiên quanh trẻ”. Điều này, giúp trẻ cảm thấy thích thú, say sưa khi được trải nghiệm cùng chúng. Bên cạnh đó, để làm rõ hơn giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật thuộc lĩnh vực giáo dục nào của phương pháp Montessori, cô L.K.C cho rằng “Việc giáo dục trẻ kĩ năng sử dụng vật thật thuộc lĩnh vực thực hành cuộc sống trong năm lĩnh vực giáo dục của phương pháp Montessori và nội dung giáo dục giúp cho trẻ luyện tập các kĩ năng sử dụng các vật thật xung quanh cuộc sống của trẻ để trẻ có thể tự phục vụ bản thân, giúp đỡ mọi người và bảo vệ môi trường xung quanh trẻ làm cho nó trở nên sạch đẹp hơn, hình thành và phát triển kĩ năng cho trẻ khi sử dụng các vật dụng được bày biện trên kệ. Ví dụ: qua hoạt động rót nước từ li này sang li kia, trẻ thao tác một cách nhịp nhàng mà không làm đổ nước ra ngoài hoặc không làm vỡ li; qua đó, trẻ đã có thể tự phục Bảng 3. Tổng hợp lựa chọn của GVMN về mức độ sử dụng các nội dung để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ 24-36 tháng STT Nội dung Tỉ lệ (%) Thường xuyên Ít thường xuyên Không thường xuyên 1 Sử dụng những đồ dùng tự phục vụ bản thân như: ăn uống, ngủ, vệ sinh, đi lại... 80 20 0 2 Sử dụng dụng cụ nhà bếp trong các giờ học ngoại khóa 55 45 0 3 Sử dụng công cụ lao động trong vườn trường hoặc trong hoạt động dã ngoại. 35 65 0 Bảng 4. Những khó khăn của GVMN khi giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ 24-36 tháng theo phương pháp Montessori STT Những khó khăn Tỉ lệ (%) Thường xuyên Ít thường xuyên Không thường xuyên 1 Mất nhiều thời gian 60 40 0 2 Thời gian cho hoạt động chưa đủ 0 0 0 3 Không biết cách kích thích trẻ động não, nên thường làm mẫu cho trẻ làm theo 40 55 5 4 Khả năng tiếp thu của trẻ không đồng đều 90 10 0 5 Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên chưa đồng đều 75 15 10 6 Trình độ ngoại ngữ 45 40 15 7 Phụ huynh chưa quan tâm đúng mức đến việc giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật của trẻ 50 50 0 8 Cơ sở vật chất còn hạn chế 30 70 0 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 142-146; 199 146 vụ bằng cách lấy nước từ bình cô rót sẵn để uống và có thể giúp bạn nhỏ hơn. Thông qua đó, cũng đã giáo dục trẻ được tính tự lập, cẩn thận, khéo léo, biết giúp đỡ người khác”. Điều này cho thấy, những nội dung giáo dục tại kệ thực hành cuộc sống rất thiết thực và gần gũi với đời sống của trẻ. Tại đây trẻ có thể tự mình sử dụng vật thật như: dao, thớt, đồ cài nút, khóa... một cách tự do, thoải mái, thỏa mãn nhu cầu của trẻ; dần dần phát triển cho trẻ kĩ năng sử dụng chúng ngày càng thành thạo hơn khi được luyện tập thường xuyên. 2.2.3. Khó khăn của giáo viên mầm non khi sử dụng phương pháp Montessori để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ từ 24-36 tháng Trong quá trình tổ chức dạy học, GVMN còn gặp phải một số khó khăn nhất định. Những khó khăn này làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của trẻ về mọi mặt, đặc biệt là về mặt kĩ năng sử dụng vật thật. Bảng 4 cho thấy “Khả năng tiếp thu của trẻ không đồng đều” là khó khăn mà GVMN thường xuyên gặp trong việc giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ 24-36 tháng (90%). Điều này cũng dễ dàng nhận thấy qua quan sát, khả năng tập trung chú ý của trẻ chưa cao và số trẻ trong lớp chênh lệch nhiều về tháng tuổi gây khó khăn khi tổ chức giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ, trong lớp những trẻ lớn tháng tuổi hơn sẽ chú ý và làm tốt hơn khi GVMN hướng dẫn. Mặc khác, đa số các trẻ ở trường mầm non tư thục Montessori đều là trẻ đến từ nhiều quốc gia, khả năng tiếp thu “tiếng Anh” của trẻ còn hạn chế, trẻ phải mất một khoảng thời gian dài mới thích nghi. Vì vậy, việc dạy học này của GVMN còn gặp nhiều khó khăn, trẻ không hiểu ngôn ngữ của cô dẫn đến trẻ không tập trung chú ý, thường không quan sát GVMN làm mẫu nên khả năng tiếp thu của trẻ sẽ không đồng đều. Chỉ có những trẻ học từ đầu năm hay tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ thì trẻ mới hứng thú lắng nghe GVMN hướng dẫn và làm đúng chức năng của vật thật; đối với những trẻ còn bất đồng ngôn ngữ, trẻ thường làm sai và chậm hơn các bạn khác. Do rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan mà các GVMN chưa có điều kiện bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao trình độ hiểu biết về phương pháp Montessori; vì vậy, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của GVMN chưa đồng đều (75% GVMN lựa chọn mức độ thường xuyên khó khăn). Qua quan sát, khi tổ chức giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ, GVMN đã dành thời gian quan sát, hướng dẫn và sửa sai cho từng trẻ vì họ cho rằng trẻ ở độ tuổi này các thao tác còn vụng về, chưa nhanh nhẹn, trẻ cần thời gian để rèn luyện nên GVMN đã mất nhiều thời gian cho hoạt động này. Vì vậy, 60% GVMN lựa chọn mức độ thường xuyên cho rằng mất nhiều thời gian để tổ chức giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ khi sử dụng phương pháp Montessori. Về trình độ ngoại ngữ, qua điều tra được biết 45% GVMN lựa chọn mức độ thường xuyên còn hạn chế về trình độ tiếng Anh nên việc tiếp xúc với trẻ ban đầu còn gặp khó khăn do trẻ ở nhiều quốc gia nên nói nhiều ngôn ngữ khác nhau. GVMN tại trường Montessori ngoài việc nắm vững trình độ chuyên môn còn phải có khả năng giao tiếp tiếng Anh tốt thì mới hỗ trợ cho công tác giảng dạy tại trường đạt hiệu quả. Có 50% GVMN lựa chọn mức độ thường xuyên gặp khó khăn “Phụ huynh chưa quan tâm đúng mức đến việc giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật của trẻ”. Thực tế, cô P.T.T.A cho biết “Phụ huynh vì một vài nguyên nhân nên lơ là đến việc giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ, đặc biệt là phụ huynh Việt Nam thường cho rằng con còn quá nhỏ, chưa tự mình phục vụ bản thân, nên thường giao phó cho GVMN dạy trẻ trên lớp mà không kết hợp cùng GVMN thực hiện ở gia đình, họ cũng rất ít khi tham gia hoạt động với vật thật trên trường cùng trẻ”. Mặc dù điều kiện cơ sở vật chất, đồ dùng, vật thật có trang bị khá đầy đủ nhưng 30% GVMN vẫn lựa chọn mức độ thường xuyên khó khăn do cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu để thực hiện tốt hoạt động này. Cụ thể, diện tích phòng học còn nhỏ, nên không đủ không gian để bày biện thêm vật thật lên kệ cho trẻ hoạt động, rất ít sử dụng đồ dùng bằng sành sứ, thủy tinh; vì thế GVMN rất khó để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ tới kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ. Có 40% GVMN lựa chọn thường xuyên gặp khó khăn khi “không biết cách kích thích trẻ động não nên thường làm mẫu cho trẻ làm theo”. Qua trao đổi, cô N.T.T cho biết “Kích thích trẻ động não ở lứa tuổi này là một vấn đề không dễ dàng thực hiện, vì trẻ rất hiếu động, vốn kinh nghiệm còn nghèo nàn nên GVMN thường xuyên làm mẫu cho trẻ thực hiện theo”. Theo quan điểm khảo sát, GVMN đã quá lạm dụng việc làm mẫu mà không để trẻ tự do hoạt động bằng cách thử - sai nhằm kích thích trẻ động não để trẻ tìm ra được cách làm phù hợp. Những khó khăn trên đã làm ảnh hưởng đến kết quả của việc sử dụng phương pháp Montessori giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ từ 24-36 tháng tuổi. 3. Kết luận Mặc dù nhận thức của GVMN về việc sử dụng phương pháp Montessori để giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ ở mức cao nhưng hoạt động này vẫn còn gặp nhiều khó khăn khi sử dụng. GVMN vẫn còn can thiệp vào hoạt động của trẻ khi tổ chức thực hiện hay trong các hoạt động khác, giáo viên chưa tạo điều kiện cho trẻ được tham gia, cũng như chưa biết linh hoạt tổ chức hoạt động liên lớp. Điều này vô tình đã làm ảnh hưởng đến kết quả của việc giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ. Thực trạng này sẽ là cơ sở để xây dựng các biện pháp giúp GVMN sử dụng phương pháp Montessori giáo dục kĩ năng sử dụng vật thật cho trẻ 24-36 tháng tuổi đạt kết quả cao; qua đó, phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ, đặc biệt là kĩ năng sử dụng vật thật của trẻ. (Xem tiếp trang 199) VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 195-199 199 thu tri thức của người học sẽ mang lại những kết quả tốt đẹp trong quá trình dạy và học. Tài liệu tham khảo [1] Little, D. (1991). Learner Autonomy and second/ foreign Language Learning. Dublin: Authentik. [2] Thái Duy Tuyên (2003). Dạy tự học cho sinh viên trong các nhà trường cao đẳng, đại học chuyên nghiệp. Chuyên đề Phương pháp dạy học cho học viên cao học, Đại học Huế. [3] Rindley, G. (1989). Assessing achievement in the learner-centered curriculum. Sydney: National Center for English Language Teaching and Research. [4] Đặng Xuân Hải (2007). Tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của giảng viên và của sinh viên trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Tạp chí Giáo dục, số 175, tr 5-7. [5] Dominique Rabine-Bucknor (2010). Adult Teaching and Learning: Self Directed Learning, Application Paper, Colorado State University. [6] Henri Holec (1979). Autonomy and Foreign Language Learning, Council for Cultural Cooperation, Strasbourg (France). [7] Lâm Quang Thiệp (2008). Về việc áp dụng học chế tín chỉ trên thế giới và ở Việt Nam. Kỉ yếu Hội thảo khoa học, Trường Đại học Vinh. [8] Leslie Dickinson (1992). Learner Autonomy: Learner Training for Language Learning (Volume 2). Paperback - November. [9] Lưu Xuân Mới (2000). Lí luận dạy học đại học. NXB Giáo dục. [10] Nguyễn Thị Thu Huyền (4/2016). Vai trò của kĩ năng tự học (ngoài lớp học). Cổng thông tin điện tử Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. [11] Phil Banson (2005). Autonomy in language learning, Longman. [12] The glossary of Education Reform (2014). https://www.edglossary.org/teacher-autonomy/. [13] Vygotsky S.L.(2004). Imagination and Creativity in Childhood. Journal of Russian and East European Psychology, Vol. 42, No. 1, January-February, pp. 7-97, M.E. Sharpe, Inc. [14] Chính phủ (2012). Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 về việc Phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020. [15] Citation: Huitt, W. (1998). Critical thinking: An overview. Educational Psychology Interactive. Valdosta, GA: Valdosta State University. [16] De Bono, E. (1970). Lateral thinking: creativity step by step. Harper & Row, pp. 300. ISBN 0-14- 021978-1. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ (Tiếp theo trang 179) Tài liệu tham khảo [1] Ban Thanh niên trường học (2007). Định hướng giá trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay. NXB Thanh niên. [2] Nguyễn Thanh Bình (2007). Giáo trình Giáo dục kĩ năng sống (dành cho sinh viên cao đẳng sư phạm). NXB Đại học Sư phạm. [3] Tăng Bình - Thu Huyền - Ái Phương (2012). Ứng xử sư phạm và giáo dục kĩ năng mềm trong nền giáo dục hiện nay. NXB Hồng Đức. [4] Lê Văn Chiến (2006). Kĩ năng sống dành cho bạn trẻ. NXB Trẻ. [5] Chu Văn Đức (2005). Giáo trình kĩ năng giao tiếp. NXB Hà Nội. [6] Hoàng Thị Hiền (2014). Giáo trình kĩ năng mềm - Tiếp cận theo hướng sư phạm tương tác. NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. [7] Huỳnh Văn Sơn (2013). Thử nghiệm một vài biện pháp phát triển kĩ năng mềm cho sinh viên đại học Sư phạm. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số 50, tr 68-77. THỰC TRẠNG GIÁO VIÊN MẦM NON (Tiếp theo trang 146) Tài liệu tham khảo [1] Phạm Thị Mai Chi - Bùi Kim Tuyến - Lương Thị Bình - Phan Lan Anh (2005). Hướng dẫn hoạt động cho trẻ 1-3 tuổi. NXB Giáo dục TP. Hồ Chí Minh. [2] Ngọc Thị Thu Hằng (2014). Giới thiệu phương pháp giáo dục Montessori. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, số 57, tr 125-139. [3] Ngô Hiểu Huy (2013). Phương pháp giáo dục Montessori - Phương pháp giáo dục tối ưu dành cho trẻ 0-6 tuổi. NXB Văn hóa - Thông tin. [4] Lý Lợi (2014). Phương pháp Giáo dục Montessori - Thời kì nhạy cảm của trẻ. NXB Đại học Sư phạm. [5] Maria Montessori (2008). Dạy con trước tuổi lên 3. NXB Lao động. [6] Patricia Giardiello (2014). Pioneers in early childhood education. Routledge, London and New York. [7] Rambusch Nancy Mccormick (1988). Dr. Montessori's own handbook. Schocken books, New York. [8] Aline D. Wolf. (1995). A parents' guide to the Montesssori classroom. Parent child press.
File đính kèm:
- thuc_trang_giao_vien_mam_non_su_dung_phuong_phap_montessori.pdf