Thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên trường Đại học Hồng Đức
Tuổi sinh viên (SV) là lứa tuổi đẹp nhất cả về thể chất
và tinh thần, luôn có khát vọng vươn lên, mong muốn
khám phá những điều mới lạ và tự khẳng định mình. SV
được học tập, rèn luyện trong môi trường đại học để trở
thành những người lao động có trình độ cao, đáp ứng yêu
cầu của mọi lĩnh vực nghề nghiệp, đóng góp quan trọng
vào sự phát triển KT-XH của quốc gia. Bối cảnh phát
triển của xã hội hiện đại đang có những tác động đa chiều
đến SV và đặt nhà trường trước yêu cầu phải tăng cường
giáo dục kĩ năng sống (KNS) để chuẩn bị tốt hành trang
cho các em bước vào cuộc sống tự chủ, độc lập sau khi
ra trường và ứng phó một cách chủ động với các tình
huống bất thường của cuộc sống.
Hồng Đức là Trường đại học đa ngành, có sứ mệnh
đào tạo nhân lực chất lượng cao và cung cấp nguồn nhân
lực khoa học - công nghệ tiên tiến phục vụ cho phát triển
KT-XH của tỉnh Thanh Hóa và các vùng lân cận. Trong
những năm qua, sau khi tốt nghiệp, SV Trường Đại học
Hồng Đức đã trở thành lực lượng lao động có trình độ
cao trong nhiều lĩnh vực ngành nghề, đóng góp không
nhỏ cho sự phát triển KT-XH của địa phương. Tuy nhiên,
trong bối cảnh xã hội có nhiều biến đổi nhanh chóng về
kinh tế, khoa học, công nghệ do ảnh hưởng tiêu cực của
mặt trái nền kinh tế thị trường, sự va đập văn hóa của
toàn cầu hóa, yêu cầu ngày càng cao về mục tiêu giáo
dục đại học, có rất nhiều thách thức đang được đặt ra
đối với việc giáo dục nói chung và giáo dục KNS nói
riêng cho SV Trường Đại học Hồng Đức.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên trường Đại học Hồng Đức
hận thức rõ điều này nên các hoạt động được tổ chức cho SV đều nhắm đến việc hình thành và rèn luyện kĩ năng này cho SV thường xuyên. Tuy nhiên, vẫn còn những kĩ năng mặc dù được tổ chức giáo dục cho SV nhưng SV cho rằng, họ ít được cung cấp thông tin, ít được rèn luyện như kĩ năng phê phán. Thực tế qua việc tổ chức dạy học, các hoạt động giáo dục KNS cho thấy, việc phê phán, đánh giá hoạt động, cá nhân hay tập thể sau khi tham gia hoạt động đó là vấn đề khá khó khăn đối với SV. Họ chưa biết cách đánh giá, nhận xét, phê phán một cách khách quan mà chủ yếu dựa trên những đánh giá cảm tính cá nhân. 2.4. Thực trạng phương pháp giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên Kết quả khảo sát thu được ở bảng 4. Bảng 4 cho thấy, các phương pháp giáo dục KNS cho SV được sử dụng ở mức thường xuyên trong quá trình giáo dục thể hiện ở ĐTB đánh giá của CBQL là 2,58, GV là 2,51 và SV là 2,49. Trong đó, phương pháp được sử dụng thường xuyên nhất theo ý kiến của CBQL và GV là “Phương pháp tổ chức cho SV tham gia vào các hoạt Bảng 4. thực trạng phương pháp giáo dục KNS cho SV TT Phương pháp giáo dục KNS cho SV CBQL GV SV X Thứ bậc X Thứ bậc X Thứ bậc 1 Phương pháp giảng giải 2,48 7 2,58 4 2,60 3 2 Phương pháp đàm thoại 2,42 8 2,54 5 2,42 7 3 Phương pháp tạo dư luận 2,36 9 2,39 9 2,34 9 4 Phương pháp giao việc 2,72 3 2,70 2 2,54 5 5 Phương pháp luyện tập 2,68 4 2,65 3 2,38 8 6 Phương pháp tổ chức cho SV tham gia vào các hoạt động thực tiễn xã hội 2,86 1 2,78 1 2,57 4 7 Phương pháp thi đua 2,56 6 2,42 8 2,48 6 8 Phương pháp nêu gương 2,78 2 2,49 6 2,75 1 9 Phương pháp khen thưởng 2,64 5 2,45 7 2,68 2 10 Phương pháp trách phạt 2,28 10 2,12 10 2,17 10 X chung 2,58 2,51 2,49 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 158-164 162 động thực tiễn xã hội” với ĐTB lần lượt là 2,86 và 2,78. Phương pháp được sử dụng thường xuyên nhất theo ý kiến của SV là “Phương pháp nêu gương” với ĐTB 2,75. Có sự thống nhất trong ý kiến về phương pháp ít được sử dụng là “Phương pháp trách phạt” với ĐTB đánh giá của CBQL là 2,28, GV là 2,12 và SV 2,17. Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc tổ chức hoạt động giáo dục KNS cho SV ở Trường Đại học Hồng Đức nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo Khoa, Nhà trường, với các nội dung tổ chức giáo dục đa dạng, phong phú từ đầu năm học đến cuối năm học. Các hoạt động được tổ chức theo chủ điểm hàng tháng như: Chào mừng năm học mới, chào đón tân SV, chào mừng kỉ niệm thành lập Trường (tháng 9), chào mừng ngày Phụ nữ Việt Nam (tháng 10), chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam (tháng 11), chào mừng ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (tháng 12), mừng Đảng mừng xuân (tháng 1, tháng 2), tháng Thanh niên (tháng 3) Hướng đến các chủ điểm đó, nhiều hoạt động được tổ chức như: Đêm hội “We are students”, Thi giọng hát hay học sinh SV, Hội thi cắm hoa, Hội diễn văn nghệ, Giải bóng đá cán bộ viên chức lao động - học sinh SV, Giải bóng chuyền học sinh SV, giải cờ vua học sinh SV, Hội thi quốc phòng an ninh, Hội thi Bí thư chi đoàn giỏi, Hội thi Rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp, Hội thi Tiểu phẩm phòng chống Tệ nạn xã hội, Hoạt động tình nguyện “Chung sức vì cộng đồng”, Hoạt động tình nguyện dạy trẻ tại làng SOS Hưởng ứng các cuộc thi do Trung ương đoàn và Tỉnh đoàn tổ chức. Các hoạt động này được tổ chức với sự kết hợp của các phương pháp tổ chức cho SV tham gia vào các hoạt động thực tiễn xã hội, phương pháp nêu gương, phương pháp giao việc, phương pháp luyện tập, phương pháp khen thưởng Điều này đúng với ý kiến đánh giá của CBQL và GV về việc sử dụng các phương pháp giáo dục KNS cho SV. Phương pháp ít được sử dụng nhất là trách phạt, tạo dư luận. SV trường đại học chủ yếu học tập, nghiên cứu một cách tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo nên trong quá trình giáo dục KNS cho SV, các phương pháp tạo dư luận, phương pháp trách phạt ít được sử dụng. Phương pháp trách phạt chỉ sử dụng khi SV vi phạm nhiều lần trong quá trình tham gia hoạt động giáo dục do Khoa và Nhà trường tổ chức. Phương pháp giảng giải chủ yếu sử dụng trong quá trình dạy học lí thuyết trên lớp, còn trong quá trình tổ chức hoạt động giáo dục KNS cho SV, phương pháp này chỉ sử dụng trong phần đầu của hoạt động nhằm hướng dẫn cho SV những thao tác cần thiết trong quá trình tham gia hoạt động. Điều này phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của SV, SV đang ở tuổi trưởng thành cả thể chất và tâm lí, các em đã hiểu và nhận thức được vấn đề do đó ít phải sử dụng các phương pháp này. Như vậy, trong quá trình tổ chức hoạt động giáo dục KNS cho SV Trường Đại học Hồng Đức, có nhiều phương pháp được sử dụng nhằm giúp SV phát triển KNS cho SV. Tuy nhiên, việc sử dụng các phương pháp như trên vẫn chưa mang lại hiệu quả cao trong giáo dục KNS cho SV. Thực trạng này đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo các cấp trong nhà trường cần đề xuất và áp dụng các biện pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục KNS cho SV Trường Đại học Hồng Đức. 2.5. Thực trạng hình thức giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên Kết quả khảo sát thu được ở bảng 5. Bảng 5 cho thấy, có nhiều hình thức giáo dục KNS cho SV Trường Đại học Hồng Đức, trong đó con đường giáo dục được sử dụng thường xuyên hơn cả là: “Thông qua việc tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao” với ĐTB đánh giá của CBQL, GV và SV lần lượt là 2,98; 2,76 và 2,78, thứ bậc 1. Tiếp đến là Bảng 5. Thực trạng các hình thức giáo dục KNS cho SV TT Hình thức giáo dục KNS cho SV CBQL GV SV X Thứ bậc X Thứ bậc X Thứ bậc 1 Thông qua việc tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp 2,82 3 2,65 3 2,54 4 2 Thông qua việc tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao 2,98 1 2,76 1 2,78 1 3 Thông qua tổ chức các hội thi 2,93 2 2,70 2 2,68 2 4 Thông qua tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ 2,67 5 2,55 5 2,48 5 5 Thông qua hình thức tham quan, thực tế 2,58 6 2,46 6 2,42 6 6 Thông qua các hoạt động sinh hoạt tập thể 2,76 4 2,60 4 2,58 3 X chung 2,79 2,62 2,58 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 158-164 163 “Thông qua tổ chức các hội thi” với ĐTB đánh giá của CBQL là 2,93; GV là 2,70 và SV là 2,68, thứ bậc 2. Kết quả thu được từ điều tra, kết hợp với quan sát thực tế việc tổ chức các hoạt động giáo dục KNS cho SV Trường Đại học Hồng Đức, chúng tôi nhận thấy: Trong những năm qua, Trường Đại học Hồng Đức đã tổ chức nhiều hoạt động giáo dục với các hình thức đa dạng nhằm giáo dục KNS cho SV như các hoạt động được kể tên. Các hình thức giáo dục trên đã thu hút được SV tham gia, giúp SV rèn luyện được các KNS cần thiết cho bản thân mình. Tuy nhiên, việc tổ chức nhiều hoạt động cho SV vào thời gian trong năm học khiến cho nhiều SV tích cực tham gia hoạt động mà xao nhãng việc học tập. Mặt khác, nhiều SV vì chú trọng việc học tập hay đi làm thêm mà chưa dành thời gian phù hợp cho việc tham gia các hoạt động để rèn luyện KNS cần thiết cho mình. Bên cạnh đó, các hoạt động giáo dục KNS cho SV chưa lan tỏa đến mọi SV trong toàn trường mà mới chỉ có một bộ phận SV tham gia. Có những SV tham gia một cách hình thức để lấy thành tích, chưa có sự toàn tâm toàn ý cho việc tham gia hoạt động nhằm phát triển KNS cho bản thân mình. Đây là một trong những bất cập trong tổ chức hoạt động giáo dục KNS cho SV Trường Đại học Hồng Đức cần khắc phục trong thời gian tới. Vì vậy, cần xây dựng biện pháp thích hợp nhằm quản lí tốt hơn hoạt động giáo dục KNS cho SV góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường hiện nay. Trong các hình thức giáo dục trên, có 2 hình thức giáo dục ít được sử dụng hơn cả, đó là: “Thông qua tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ” với ĐTB đánh giá của CBQL, GV và SV là 2,67; 2,55 và 2,48, thứ bậc 5 và “Thông qua hình thức tham quan, thực tế” với ĐTB đánh giá của CBQL, GV và SV là 2,58; 2,46 và 2,42, thứ bậc 6. Ở Trường Đại học Hồng Đức, có nhiều câu lạc bộ, đội, nhóm được thành lập trực thuộc Đoàn trường, Hội SV trường, trực thuộc các Liên chi đoàn như: Câu lạc bộ Nhà doanh nghiệp tương lai, Câu lạc bộ tiếng Anh Aloha Tuy nhiên, các câu lạc bộ hoạt động một cách hình thức, chưa sinh hoạt thường xuyên, chưa mang lại hiệu quả cao trong giáo dục KNS cho SV. Đối với hình thức giáo dục thông quan tham quan, thực tế cũng ít được sử dụng do đặc trưng của mỗi ngành đào tạo mà các hình thức tổ chức giáo dục khác nhau, kinh phí chi cho hoạt động này còn hạn chế, vì thế không được thực hiện thường xuyên trong toàn trường đối với tất cả SV ở các ngành đào tạo. Qua trò chuyện với SV N.T.V.A, lớp K18B Đại học Sư phạm Ngữ văn, Khoa Khoa học Xã hội, em cho biết: “Chúng em mong muốn Nhà trường tổ chức nhiều hình giáo dục KNS như được thực tế, trải nghiệm, được tham gia các câu lạc bộ, qua đó chúng em mới có nhiều cơ hội được rèn KNS”. 2.6. Thực trạng các điều kiện giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên Kết quả xử lí số liệu thu được ở bảng 6. Bảng 6 cho thấy, các điều kiện tổ chức hoạt động giáo dục KNS cho SV ở Trường Đại học Hồng Đức khá tốt với ĐTB đánh giá của CBQL là 2,75, GV 2,78 và SV 2,64. “Phòng học với đầy đủ các thiết bị máy tính, máy chiếu, mic, loa” được đánh giá tốt nhất với ĐTB của CBQL là 2,89, GV 2,88. Theo đánh giá của SV thì “Hội trường” có chất lượng tốt nhất với ĐTB là 2,81. “Thư viện với đầy đủ tài liệu về KNS” được đánh giá là có chất lượng thấp nhất với ĐTB của CBQL, GV và SV lần lượt là 2,65, 2,68 và 2,48. Từ kết quả điều tra và quan sát thực tế, chúng tôi nhận thấy, Trường Đại học Hồng Đức có cơ sở vật chất tốt, đáp ứng các điều kiện cho việc tổ chức hoạt động giáo dục KNS. Hệ thống phòng học với các thiết bị như máy tính, máy chiếu, mic, loa được trang bị đồng bộ. Hội trường, Bảng 6. Thực trạng các điều kiện giáo dục KNS cho SV TT Các điều kiện giáo dục KNS cho SV CBQL GV SV X Thứ bậc X Thứ bậc X Thứ bậc 1 Sân vận động 2,72 4 2,80 3 2,65 3 2 Hội trường 2,80 2 2,84 2 2,81 1 3 Phòng truyền thống 2,76 3 2,72 5 2,72 2 4 Thư viện với đầy đủ tài liệu về KNS 2,65 6 2,68 6 2,48 6 5 Hệ thống mạng Internet không dây 2,68 5 2,76 4 2,62 4 6 Phòng học với đầy đủ các thiết bị máy tính, máy chiếu, mic, loa 2,89 1 2,88 1 2,56 5 X chung 2,75 2,78 2,64 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 158-164 164 phòng truyền thống, sân vận động cũng được đầu tư xây dựng. Trường Đại học Hồng Đức có sân vận động với sân cỏ nhân tạo đạt tiêu chuẩn để tổ chức các giải đấu bóng đá lớn. Hội trường lớn A7 (cơ sở 2) với hơn 300 chỗ ngồi là nơi để tổ chức hoạt động văn nghệ, các hội thi, nhiều hội trường nhỏ và vừa ở nhà Điều hành, nhà A5, A6 Tuy nhiên, thư viện của nhà trường chưa đáp ứng được yêu cầu về giáo dục KNS cho SV. Hệ thống tài liệu của thư viện chưa cung cấp cho SV đầy đủ. Thời gian mở cửa thư viện còn hạn chế trong giờ hành chính. Trong thời gian này, SV phải tham gia hoạt động học tập trên lớp, tham gia các hoạt động khác nên SV ít lên thư viện tìm kiếm tài liệu, tra cứu thông tin Từ thực trạng trên, cần xây dựng thư viện với hệ thống tài liệu về KNS đầy đủ, cần mở cửa thư viện đến 21h00’ tối để SV có thời gian lên thư viện tìm kiếm tài liệu, tra cứu thông tin phục vụ cho hoạt động học tập, nghiên cứu và tự giáo dục KNS. 3. Kết luận Nghiên cứu thực trạng hoạt động giáo dục KNS cho SV Trường Đại học Hồng Đức cho thấy, CBQL, GV và SV đã nhận thức được sự cần thiết của hoạt động này. Bên cạnh những nội dung đã thực hiện tốt, vẫn còn tồn tại một số hạn chế trong công tác này. Cụ thể: Một bộ phận SV chưa có nhận thức đầy đủ về vai trò của giáo dục KNS đối với sự phát triển nhân cách cá nhân; năng lực trong việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa chưa cao do chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các đơn vị trong tổ chức hoạt động giáo dục, SV chưa có sự hợp tác và tham gia tích cực vào các hoạt động giáo dục. Hoạt động giáo dục KNS chưa phổ biến đến tất cả SV. Các hoạt động giáo dục được tổ chức chưa lôi cuốn SV, chưa mang lại hiệu quả cao cho rộng rãi SV nên những lần tổ chức sau thì SV không quan tâm đến việc tham gia hoạt động. Một bộ phận SV rụt rè, e ngại khi tham gia các hoạt động giáo dục, số SV có năng lực học tập thì chú tâm vào việc học chuyên ngành, chưa dành thời gian phù hợp cho việc tham gia vào các hoạt động giáo dục KNS. Hoạt động giáo dục KNS cho SV Trường Đại học Hồng Đức đã được tổ chức qua nhiều hình thức, song vẫn chưa đạt được mục tiêu như mong muốn và kết quả giáo dục KNS cho SV vẫn chưa cao. Vì vậy, Nhà trường cần có những biện pháp giáo dục góp phần nhằm nâng cao KNS cho SV, giúp các em vững tin trong học tập, trong cuộc sống, tự lập thân, lập nghiệp. Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Thanh Bình - Lê Thị Thu Hà - Đỗ Khánh Năm - Nguyễn Thị Quỳnh Phương (2017). Giáo trình chuyên đề Giáo dục kĩ năng sống. NXB Đại học Sư phạm. [2] Bộ GD-ĐT (2013). Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về lãnh đạo và quản lí giáo dục trong thời kì đổi mới. NXB Văn hóa - Thông tin. [3] Đặng Quốc Bảo - Phạm Đỗ Nhật Tiến - Đặng Bá Lãm - Đặng Thị Thanh Huyền - Lê Phước Minh (2016). Quản lí giáo dục Việt Nam: Đổi mới và phát triển. NXB Giáo dục Việt Nam. [4] Phan Thanh Long (chủ biên, 2018). Giáo dục đa văn hóa cho sinh viên các trường đại học phục vụ quá trình hội nhập và toàn cầu hóa. NXB Giáo dục Việt Nam. [5] Trần Thị Minh Hằng (2011). Giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên hiện nay. Tạp chí Giáo dục, số 261, tr 18-19; 26. [6] Nguyễn Thị Thu Hà (2016). Thực trạng quản lí giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên các trường đại học thành viên Huế. Tạp chí Giáo dục, số 397, tr 17-20. [7] Nguyễn Trọng Tuân (2012). Giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Tạp chí Giáo dục, số 293, tr 34-35; 42. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG SEMINAR... (Tiếp theo trang 257) [4] Mai Văn Thi (2018). Nghiên cứu chương trình môn Xác suất - Thống kê ngành Kinh tế, Kĩ thuật ở Trường Đại học Hàng hải Việt Nam theo hướng dạy học hỗ trợ nghề nghiệp cho sinh viên. Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 02, tr 108-111. [5] Nguyễn Trọng - Tống Danh Đạo (2001). Cơ học cơ sở (tập 1). NXB Khoa học và Kĩ thuật. [6] Nguyễn Anh Tuấn - Lê Bá Phương (2014). Tăng cường liên hệ với thực tiễn nghề nghiệp trong dạy Toán cơ bản cho sinh viên Trường Đại học Công nghiệp. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 59 (1), tr 3-11. [7] Darling - Hammond, L (2006). Constructing 21st- century teacher education. Journal of Teacher Education, Vol. 57 (3), pp. 1-15. [8] Kennedy, M. (1999). The role of preservice teacher education. In L. Darling-Hammond & G. Sykes (Eds.). Teaching as the learning profession: Handbook of policy and practice (pp. 54-85). San Francisco: Jossey-Bass. [9] Jamesste wart (2002). Caculus concepts and contexts. Brookscole.
File đính kèm:
- thuc_trang_giao_duc_ki_nang_song_cho_sinh_vien_truong_dai_ho.pdf