Thực trạng các mô hình tập trung đất nông nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam

Lý luận và thực tiễn đều đã khẳng định tập trung đất đai trong nông nghiệp là một xu thế tất yếu để đưa sản xuất nông nghiệp lên sản xuất hàng hóa, tập trung có quy mô lớn, có liên kết chặt chẽ, có kế hoạch và phân phối lợi ích hài hòa giữa sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hóa. Đối với các vùng kinh tế trọng điểm thì việc tập trung đất đai cho sản xuất nông nghiệp là hướng đi hoàn toàn phù hợp với mục tiêu phát triển. Kết quả nghiên cứu tập trung vào việc phân tích cơ chế hình thành, nguồn gốc đất đai, các yếu tố ảnh hưởng đến từng mô hình; đánh giá thực trạng các mô hình tập trung đất đai, ứng dụng công nghệ cao tại 4 vùng kinh tế trọng điểm và 4 tỉnh đặc thù; phân tích những tồn tại, vướng mắc đối với từng mô hình cũng như một số vướng mắc về các quy định có liên quan; xác định các nguyên nhân để đề xuất các giải pháp hoàn thiện về chính sách pháp luật về đất đai

Thực trạng các mô hình tập trung đất nông nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam trang 1

Trang 1

Thực trạng các mô hình tập trung đất nông nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam trang 2

Trang 2

Thực trạng các mô hình tập trung đất nông nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam trang 3

Trang 3

Thực trạng các mô hình tập trung đất nông nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam trang 4

Trang 4

Thực trạng các mô hình tập trung đất nông nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam trang 5

Trang 5

Thực trạng các mô hình tập trung đất nông nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam trang 6

Trang 6

Thực trạng các mô hình tập trung đất nông nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam trang 7

Trang 7

Thực trạng các mô hình tập trung đất nông nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam trang 8

Trang 8

Thực trạng các mô hình tập trung đất nông nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam trang 9

Trang 9

Thực trạng các mô hình tập trung đất nông nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang xuanhieu 3660
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Thực trạng các mô hình tập trung đất nông nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng các mô hình tập trung đất nông nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam

Thực trạng các mô hình tập trung đất nông nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam
ng theo các quy trình hiện đại, sử dụng 
kỹ thuật tiên tiến, sản phẩm đảm bảo các yêu cầu về 
anh toàn chất lượng và bảo vệ môi trường. Theo đó, 
đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 cả nước có 
22 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao [3]. 
Mục tiêu đến năm 2020 xây dựng 10 khu nông 
nghiệp ứng dụng công nghệ cao, bao gồm: 2 khu 
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hậu Giang và 
khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Phú Yên 
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; 8 khu sẽ 
thành lập mới đến năm 2020 tại các tỉnh/thành: 
Thái Nguyên, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Khánh Hòa, 
Lâm Đồng, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và 
thành phố Cần Thơ; đó là các mô hình sản xuất rau 
an toàn, trồng hoa, cây cảnh tại thành phố Hồ Chí 
Minh, Bắc Ninh, Lâm Đồng; sản xuất nấm quy mô 
trang trại tại Vĩnh Phúc; vùng trồng chè theo công 
nghệ trồng, chế biến chè của Đài Loan (Trung 
Quốc) ở Thái Nguyên...Tuy nhiên, nếu xét theo tiêu 
chí về tỷ lệ ứng dụng công nghệ, tỷ lệ cơ giới hóa; 
khả năng đầu tư về vốn và hiệu quả thu được thì hầu 
hết tại các tỉnh điều tra đều chưa đạt được so với 
yêu cầu (Bảng 5). 
Tổng hợp số liệu tại bảng 5 cho thấy, trong tổng 
số 1.000 phiếu điều tra tại 20 tỉnh về các mô hình sử 
dụng đất tập trung quy mô lớn, thì chỉ có 35,60% các 
mô hình có ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất 
nông nghiệp. Tập trung chủ yếu tại vùng kinh tế 
trọng điểm miền Trung (cây công nghiệp) và vùng 
kinh tế trọng điểm miền Nam (cây ăn quả). Tại một 
số tỉnh đặc thù thù Nghệ An có mô hình cây màu 
(phục vụ cho chăn nuôi) và Đắk Nông (cây công 
nghiệp: cao su, cà phê, chè, hạt điều). 
3.2. Một số tồn tại, vướng mắc 
3.2.1. Tại các mô hình tập trung đất đai 
Mô hình dồn điền, đổi thửa: Việc dồn điền đổi 
thửa đã thu được kết quả ban đầu song chưa thực sự 
thành công, chủ trương tuy được các địa phương 
hưởng ứng, nhưng cách làm mỗi địa phương một 
khác nên kết quả thu được khác nhau. Sau dồn điền 
đổi thửa, các hộ nông dân đã có thể tập trung chuyên 
canh sản xuất, tuy nhiên, quy mô ruộng đất vẫn còn 
nhỏ bé, rất khó cho các hộ áp dụng cơ giới hoá, áp 
dụng khoa học kỹ thuật và sản xuất hàng hoá. 
Mô hình hợp tác sản xuất: Tuy nhiên, hình thức 
này cũng gặp trở ngại, đó là đất của các hộ tham gia 
liên kết với doanh nghiệp nằm xen kẽ với đất của các 
hộ không tham gia liên kết, ảnh hưởng đến việc xây 
dựng hệ thống giao thông, thủy lợi, cải tạo đồng 
ruộng cũng như các điều kiện bảo đảm chất lượng 
sản phẩm; ngoài ra, còn có hiện tượng một số hộ bán 
sản phẩm ra ngoài khi có giá cao hơn thỏa thuận ban 
đầu với doanh nghiệp. 
Hình thức thuê đất: 
+ Hộ nông dân thuê đất của các hộ khác để mở 
rộng sản xuất: Khó khăn lớn nhất là người đi thuê đất 
phải đàm phán với nhiều hộ nông nghiệp để có quy 
mô đủ lớn do đặc thù đất đai nước ta khá manh mún 
và thường gặp phải rủi ro vỡ hợp đồng khi người cho 
thuê đòi lại đất. Về phía người cho thuê đất, cơ hội 
kiếm việc làm phi nông nghiệp vẫn còn hạn chế nên 
nguồn cung cho thuê bị giới hạn. Về phía người đi 
thuê đất, người nông dân với đặc điểm nguồn lực về 
vốn hạn chế nên chi phí để thuê đất quy mô lớn vẫn 
còn tương đối cao trong khi chưa có cơ chế để họ có 
thể thế chấp đất thuê, tạo nguồn vốn cho sản xuất, 
kinh doanh. 
+ Doanh nghiệp thuê đất của hộ nông dân: Trên 
thực tế, tỷ lệ doanh nghiệp thuê đất nông nghiệp 
còn thấp hơn cả mức độ hộ nông dân thuê đất nông 
nghiệp của hộ nông dân. Một phần là do tỷ lệ doanh 
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp của Việt Nam tương 
đối thấp (chiếm tỷ lệ chưa tới 1% so với tổng số 
doanh nghiệp trên cả nước). Doanh nghiệp đi thuê 
đất phải làm thủ tục hợp đồng với quá nhiều đối 
tượng với những điều kiện và yêu cầu khác nhau để 
đạt được một diện tích đủ lớn, gây tốn kém và rủi ro 
cho doanh nghiệp. Chi phí đầu tư tương đối lớn mà 
doanh nghiệp lại không thể thế chấp được đất thuê. 
+ Nhà nước thuê đất của hộ nông dân rồi cho 
doanh nghiệp thuê lại: Cách làm này phần nào giải 
quyết được bất cập trên nhưng lại không đảm bảo 
tính pháp lý do trong quy định của pháp luật Việt 
Nam chưa có quy định về vấn đề này [6]. Hơn nữa, 
tính pháp lý của nguồn lực tài chính mà chính quyền 
địa phương dùng để trả tiền thuê đất của dân cũng 
chưa rõ ràng; mặt khác rất dễ phát sinh tình trạng 
tham nhũng về đất đai. Đồng thời, chưa có khung 
pháp lý và chính sách đủ mạnh để phát triển các tổ 
chức trung gian (một doanh nghiệp công ích của 
Nhà nước đứng ra thuê đất của nông dân rồi cho 
doanh nghiệp khác thuê lại). 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 1- TH¸NG 11/2020 134 
Hình thức góp vốn quyền sử dụng đất: Hình thức 
này chưa phát triển mạnh do nhiều khó khăn và rủi 
ro. Trong trường hợp doanh nghiệp làm ăn thua lỗ 
hoặc doanh nghiệp cố tình gạt người góp đất ra khỏi 
quá trình sản xuất kinh doanh thông qua tăng vốn 
điều lệ, người nông dân rất dễ rơi vào tình trạng mất 
đất (hiện nay, một số công ty cao su có sự tham gia 
góp đất của nhiều hộ gia đình ở các tỉnh Tây Bắc chưa 
thành công, ảnh hưởng đến cuộc sống của các hộ góp 
đất vào công ty như những cổ đông). Doanh nghiệp 
không thể thế chấp quyền sử dụng đất cũng như vốn 
hóa giá trị quyền sử dụng đất để vay vốn đầu tư sản 
xuất. Khả năng áp dụng của hình thức này hiện nay 
rất thấp do khó có một khung pháp lý đồng bộ cho các 
hợp đồng góp vốn của doanh nghiệp và nông dân và 
doanh nghiệp trong khi khâu quản lý doanh nghiệp 
còn rất hạn chế. 
Một số mô hình tập trung đất khác: 
+ Các hộ nhận chuyển nhượng quyền sử dụng 
đất nông nghiệp của các hộ khác để mở rộng sản 
xuất, trở thành trang trại hoặc các hộ có quy mô lớn: 
Số hộ muốn bán quyền sử dụng đất không nhiều, 
nhất là các tỉnh phía Bắc; họ chỉ bán đất khi hoàn 
cảnh bắt buộc, bởi tâm lý lo ngại công việc không ổn 
định, không bảo đảm cuộc sống khi chuyển nghề. 
Hơn nữa, đất đai còn là tài sản mà các hộ muốn để lại 
cho con cháu. Việc mua, bán quyền sử dụng đất 
nhiều trường hợp chỉ được xác nhận bằng giấy viết 
tay, cơ sở pháp lý không vững chắc. Một trở ngại nữa 
là một số hộ có đất vượt quá hạn mức được nhận 
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, phải nhờ nhiều 
người khác đứng tên một phần diện tích đất của 
mình, rất dễ phát sinh tranh chấp. 
+ Hình thức doanh nghiệp nhận chuyển nhượng 
quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ nông dân để 
mở rộng sản xuất: Vấn đề thỏa thuận giá với mỗi 
người dân để hình thành quy mô đất đủ lớn quá phức 
tạp và tốn thời gian nên hình thức này vẫn chưa phổ 
biến. Một số địa phương doanh nghiệp đầu tư vào 
nông nghiệp lại là doanh nghiệp nước ngoài (Hà 
Nam, Hưng Yên, Lâm Đồng), pháp luật về đất đai ở 
Việt Nam hiện không cho phép doanh nghiệp nước 
ngoài được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất 
nông nghiệp. 
3.2.2. Một số tồn tại chủ yếu trong các quy định 
pháp luật về đất đai có liên quan 
- Quy định về hạn mức nhận chuyển quyền sử 
dụng đất trồng cây hằng năm, đất nuôi trồng thủy 
sản không quá 10 lần hạn mức giao đất. Hộ gia đình, 
cá nhân không được nhận chuyển nhượng quyền sử 
dụng đất lúa, nếu không trực tiếp sản xuất nông 
nghiệp hoặc đất nông nghiệp trong khu rừng phòng 
hộ, trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu 
phục hồi sinh thái rừng đặc dụng nếu không sinh 
sống trong khu rừng [6] cũng đã gây nhiều khó khăn 
cho các hộ gia đình và các tổ chức trong việc tập 
trung đất nông nghiệp để sản xuất với quy mô lớn tạo 
khả năng ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất 
nông nghiệp. 
- Các quy định pháp luật về “dồn điền, đổi thửa”, 
về xác định giá trị của quyền sử dụng đất khi tham 
gia góp vốn; quy định về Luật Hợp tác xã năm 2012 
còn hạn chế, đặc biệt trong năng lực quản trị và tiếp 
cận vốn tín dụng. 
- Chưa có chính sách hiệu quả thu hút doanh 
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Doanh 
nghiệp có đủ tiềm lực về vốn, công nghệ có nhu cầu 
sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển 
nhượng đất lúa, đất rừng phòng hộ. Việc tiếp cận đất 
nông nghiệp của các doanh nghiệp còn gặp khó khăn 
do công tác công bố, công khai quỹ đất dành cho 
phát triển nông nghiệp trong quy hoạch, kế hoạch sử 
dụng đất chưa rõ ràng. 
- Điều kiện để doanh nghiệp được giao đất, cho 
thuê đất thực hiện dự án quy mô lớn trong nông 
nghiệp còn rất khó khăn và phức tạp, chưa có quy 
định trong việc hỗ trợ doanh nghiệp thuê lại hoặc 
nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp 
của nông dân nên việc triển khai các dự án đầu tư 
của doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp quy mô lớn 
còn gặp khó khăn. 
3.2.3. Tồn tại trong ứng dụng công nghệ cao vào 
sản xuất nông nghiệp của các mô hình sử dụng đất 
tập trung quy mô lớn 
 Ở Việt Nam, các doanh nghiệp không muốn 
mạo hiểm đầu tư vào nông nghiệp vì cho rằng, việc 
đầu tư vào lĩnh vực này có xác suất rủi ro khá cao, bởi 
phụ thuộc quá nhiều vào thiên nhiên, vốn đầu tư lớn, 
thu hồi chậm. Vì vậy, cách duy nhất thay đổi bức 
tranh nông nghiệp lạc hậu và lối tư duy cũ trên là đưa 
công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên 
cần phải có những nghiên cứu, khảo sát kỹ thực tiễn 
của địa phương và yêu cầu của loại hình sử dụng đất 
để áp dụng công nghệ phù hợp. 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 1 - TH¸NG 11/2020 135 
3.3. Đề xuất một số giải pháp về các chính sách 
pháp luật đất đai 
- Luật Đất đai năm 2013 chính thức được áp 
dụng từ ngày 01/7/2014, đã có nhiều điểm mới 
khuyến khích tập trung ruộng đất, nhất là thời hạn 
giao đất và hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất 
đã quy định mở hơn. Tuy nhiên, hiện nay chính sách 
“hạn điền” vẫn được coi là cản trở đối với quá trình 
tập trung ruộng đất, cần được tháo gỡ. 
- Cần có những quy định về thời hạn để đất trống 
không sản xuất thì thu hồi quyết định giao đất, cho 
thuê đất (nếu được Nhà nước giao và cho thuê), bắt 
buộc thực hiện chuyển quyền sử dụng đất (đối với 
đất mua); đánh thuế vào những đối tượng tập trung 
ruộng đất không “trực canh” hoặc không được sử 
dụng cho sản xuất nông nghiệp...; giảm thuế, phí liên 
quan đến chuyển nhượng đất nông nghiệp; xây dựng 
cơ chế cho phép chuyển đổi linh hoạt và phân quyền 
cho địa phương thẩm định phương án chuyển đổi 
mục đích sử dụng giữa đất trồng lúa, đất trồng cây 
hằng năm, đất trồng cây lâu năm, đất cho chăn nuôi, 
đất nuôi trồng thủy sản theo quy hoạch và bảo đảm 
các điều kiện về môi trường; bảo đảm quyền tài sản 
trên đất của những nhà đầu tư vào khu vực nông 
nghiệp, nông thôn. 
- Cần phối hợp với các cơ quan chức năng liên 
quan ban hành các chính sách về góp vốn trong sản 
xuất nông nghiệp (xác định giá trị của quyền sử 
dụng đất). Xem xét, sửa đổi chính sách về các doanh 
nghiệp nước ngoài thuê đất của người dân để sản 
xuất nông nghiệp trên cơ sở mục đích sản xuất nông 
nghiệp phải phù hợp, thu hút lao động của địa 
phương và có khả năng kế thừa, chuyển giao công 
nghệ. 
4. KẾT LUẬN 
Cơ chế tập trung đất đai được thông qua cơ chế 
hành chính, cơ chế dân sự và cơ chế hỗn hợp. Mỗi 
vùng miền có những điều kiện khác nhau về đất đai, 
về phong tục tập quán, dân trí nên sẽ có mức độ 
thích hợp với từng loại cơ chế khác nhau. 
Thông qua kết quả thu thập tài liệu và kết quả 
điều tra trên địa bàn 16 tỉnh thuộc 4 vùng KTTĐ và 4 
tỉnh đặc thù đã tổng hợp đánh giá được những ưu 
điểm và hạn chế riêng của từng mô hình tập trung 
đất đai. Vì vậy, cần phải có chính sách, quy định 
riêng phù hợp để có thể ứng dụng công nghệ cao 
một cách hiệu quả, đưa sản xuất nông nghiệp dần trở 
thành nền nông nghiệp hiện đại, mang lại giá trị gia 
tăng cao. 
Để phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ 
cao đạt hiệu quả, cần xây dựng mô hình điểm sinh 
động có tính toán cụ thể về các điều kiện tự nhiên, xã 
hội, khả năng về vốn và đầu ra cho sản phẩm (có khả 
năng sơ chế hoặc chế biến tại chỗ), đặc biệt quan 
tâm đến việc nhân rộng mô hình, chuyển giao công 
nghệ cho nông dân. Bước đầu đề xuất một số chính 
sách pháp luật về đất đai có liên quan nhằm đáp ứng 
được yêu cầu, tạo ra những đột phá mới trong sản 
xuất nông nghiệp, tạo cơ sở chuyển nhanh nền nông 
nghiệp nước ta theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa. 
LỜI CẢM ƠN 
Bài báo có sự hỗ trợ nguồn dữ liệu của đề tài 
nghiên cứu khoa học cấp Quốc gia “Nghiên cứu cơ 
sở khoa học, thực tiễn đề xuất mô hình sử dụng đất 
tập trung, quy mô lớn, hiệu quả, bền vững đáp ứng 
yêu cầu ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất 
nông nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm Việt 
Nam”, mã số BĐKH.35/16-20. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Chính phủ (1993). Nghị định số 64 - CP ngày 
27 tháng 9 năm 1993 về việc ban hành bản quy định 
về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá 
nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất 
nông nghiệp. 
2. Chính phủ (1997, 1998, 2009). Các Quyết định 
số 747/TTg ngày 11 tháng 9 năm 1997; Quyết định 
số 1018/1997/QĐ - TTg, ngày 29 tháng 11 năm 1997; 
Quyết định số 44/1998/QĐ - TTg, ngày 23 tháng 02 
năm 1998 và Quyết định số 492/QĐ - TTg ngày 16 
tháng 4 năm 2009 về việc thành lập các vùng kinh tế 
trọng điểm. 
3. Chính phủ (2015). Quyết định số 575/QĐ - 
TTg ngày 04 tháng 5 năm 2015 về việc phê duyệt quy 
hoạch tổng thể khu và vùng nông nghiệp ứng dụng 
công nghệ cao đến năm 2020, định hướng đến năm 
2030. 
4. Hoàng Xuân Phương và cộng sự (2014). 
Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp tích tụ, 
tập trung đất trong nông nghiệp. Đề tài cấp Bộ, Viện 
Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp, Bộ Nông 
nghiệp và PTNT. 
5. Tổng cục Thống kê. Niên giám Thống kê các 
năm 2017, 2018. 
6. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2013). 
Luật Đất đai 2013. 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 1- TH¸NG 11/2020 136 
SITUATION OF AGRICULTURAL LAND CONCENTRATION MODELS IN THE KEY ECONOMIC 
REGIONS OF VIETNAM 
Thai Thi Quynh Nhu 
Summary 
Theory and practice have both confirmed the concentration of land in agriculture is an inevitable trend to 
bring agricultural production to commodity production large-scale, closely linked, planning and distributing 
benefits harmoniously between products commodity export and consumption. For key economic regions, 
the practice centralizing land for agricultural production is a completely suitable direction for the target 
developed. However, the actual concentration of agricultural land is now special at four the key economic 
regions still faces many problems in the promulgation of these policies relevant policy and implementation 
process. Study and evaluate the status of agricultural land concentration models in key economic regions in 
order to summarize models of land concentration for agricultural production in key economic regions, 
stating shortcomings, difficulties, problems and identify causes to propose perfect solutions for policies. 
Keywords: Model, concentration of agricultural land, key economic regions. 
Người phản biện: GS.TS. Nguyễn Văn Song 
Ngày nhận bài: 28/8/2020 
Ngày thông qua phản biện: 29/9/2020 
Ngày duyệt đăng: 6/10/2020 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_cac_mo_hinh_tap_trung_dat_nong_nghiep_tai_cac_vun.pdf