Tài nguyên cây thuốc thân thảo và dây leo tại Nam Cát Tiên, Vườn quốc gia Cát Tiên
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tài nguyên cây thuốc trong tự nhiên chiếm một vị trí quan trọng về thành phần
loài tạo nên sự đa dạng của hệ thực vật tại một khu vực và có giá trị y học, kinh tế và
văn hóa [1].
Vườn quốc gia Cát Tiên (VQGCT) có diện tích 70548,36 ha. Phần Nam Cát
Tiên (NCT) thuộc xã Đắk Lua, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai [2]. Đây là rừng
nguyên sinh đặc trưng của khu vực Đông Nam bộ. Tại đây đã có nhiều chương trình,
dự án của các tổ chức trong và ngoài nước nghiên cứu về tài nguyên rừng cũng như
tài nguyên thực vật rừng, đã đánh giá khá đầy đủ giá trị tài nguyên thực vật. Tuy
nhiên, tại đây tài nguyên cây thuốc dưới tán rừng của kiểu rừng bán rụng lá và các
sinh cảnh mở, chủ yếu là các loài cây thuốc thân thảo và dây leo có vòng đời ngắn
thường có biến động theo mùa rất lớn, chưa được quan tâm và nghiên cứu sâu.
Nghiên cứu này nhằm mục tiêu kiểm kê, hệ thống hóa, lập cơ sở dữ liệu phục vụ
công tác quản lý, hướng đến khai thác, phát triển bền vững và bảo tồn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài nguyên cây thuốc thân thảo và dây leo tại Nam Cát Tiên, Vườn quốc gia Cát Tiên
.) Wettst. A 69 Cây lá han Laportea interrupta (Gand.) Chew. A 70 Mò đỏ Clerodendrum paniculatum L. A 71 Trăm ổi Lantana camara L. A 72 Hồ đằng hai màu Cissus javana DC. A 73 Hồ đằng 4 cánh Cissus quadrangularis L. A 73 Hồ đằng vuông Cissus subtetragona Pl. A 75 Cây vác Cayratia trifolia (L.) Domino A Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 22, 05-2021 21 TT Tên Việt Nam Tên Latin Hình thức ghi nhận Ngành (Phylum): Ngọc Lan (Magnoliophyta) Lớp (Class): Một lá mầm (Liliopsida) 76 Hương phụ Cyperus rotundus L. A 77 Cỏ mần trầu Eleusine indica (L.) Gaertn. A 78 Cỏ tranh Imperata cylindrical (L.) P. Beauv. A 79 Kim cang lá quế Smilax corbularia Kunth subsp. Corbularia A 80 Gừng gió Zingiber zerumbet Sm. A 81 Nga truật Curcuma zerumbet Roxb. A 82 Cây địa liền Kaemferia galangal L. A 83 Nghệ vàng Curcuma zanthorrhiza Roxb. A Ngành (Phylum): Dương xỉ (Pteridoohyta) Lớp (Class): Dương xỉ (Polypodiopsida) 84 Phượng vĩ thảo Pteris ensiformis (Burmf.) A Ghi chú: A: Có hình chụp và tiêu bản. Mức độ đa dạng về bậc họ của 10 họ thân thảo và dây leo có nhiều loài làm thuốc nhất tại khu vực nghiên cứu được thể hiện ở bảng 4. Bảng 4. Các họ thân thảo và dây leo nhiều loài làm thuốc nhất tại NCT TT Tên họ Chi Loài Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) 1 Họ Cúc (Asteraceae) 8 12,31 9 10,71 2 Họ Đậu (Fabaceae) 4 6,15 6 7,14 3 Họ Dền (Amaranthaceae) 3 4,62 4 4,76 4 Họ Ráy (Araceae) 4 6,15 4 4,76 5 Họ Bầu bí Cucurbitaceae) 3 4,62 4 4,76 6 Họ Tiết dê (Menispermaceae) 3 4,62 4 4,76 7 Họ Nho (Vitaceae) 1 1,54 4 4,76 8 Họ Gừng (Zingiberaceae) 4 6,15 4 4,76 9 Họ Hồ tiêu (Piperaceae) 2 3,08 3 3,57 10 Họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) 2 3,08 3 3,57 Tổng cộng 10 chi, họ nhiều loài nhất 34 52,31 45 53,57 Tổng số chi, loài điều tra được 65 100 84 100 Ghi chú: Tỷ lệ % = Số lượng (chi, loài)*100/Tổng số chi hoặc loài thu được. Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 22, 05-2021 22 Về đa dạng loài ở bậc họ, trong 10 họ nhiều loài làm thuốc thân thảo và dây leo nhất tại khu vực nghiên cứu chiếm 29,41% trên tổng số họ, 34 chi chiếm 52,31% trên tổng số chi và 45 loài chiếm 53,57% trên tổng số loài cây thuốc đã được khảo sát, ghi nhận tại khu vực nghiên cứu thì họ Cúc (Asteraceae) có số lượng loài được sử dụng làm thuốc lớn nhất (9 loài), chiếm 10,71% trên tổng số 84 loài, họ Đậu (Fabaceae) với 6 loài chiếm 7,14%, họ Dền (Amaranthaceae), họ Ráy (Araceae), họ Bầu bí (Cucurbitaceae), họ Tiết dê (Menispermaceae), họ Nho (Vitaceae), họ Gừng (Zingiberaceae) mỗi họ có 4 loài chiếm 4,76%. Đây cũng là những họ có số lượng loài lớn trong hệ thực vật Việt Nam với nhiều loài có giá trị làm thuốc. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của Đỗ Tất Lợi (2004) và Võ Văn Chi (2019) trong điều tra cây thuốc trước đó [8, 9]. Kết quả nghiên cứu đã thống kê được trong 34 họ thực vật dây leo và thân thảo dùng làm thuốc được điều tra tại NCT có 15/34 họ (chiếm 44,12%) chỉ thu được 1 loài. Sự mất đi một loài nào đó trong các họ này sẽ làm giảm đáng kể sự đa dạng của thực vật thân thảo và dây leo tại đó. Tỷ lệ % của 10 họ thân thảo và dây leo nhiều loài làm thuốc nhất đạt 53,57% trên tổng số 34 họ khảo sát được, trong đó chỉ có họ Cúc chiếm tỷ lệ hơn 10,71% tổng số loài khảo sát, còn lại các họ đều chiếm tỷ lệ dưới 10%. Bảng 4 cũng cho thấy 4 chi đa dạng nhất chiếm tỷ lệ 35% trong tổng số chi toàn hệ, và số loài đạt được chiếm tỷ lệ 32,14% tổng số loài của hệ. Đặc biệt chi Cissus và chi Chirita đa dạng nhất với lần lượt 4 và 3 loài chiếm tổng 8,33%. Kết quả khảo sát thu được 84 loài thuộc thân thảo và dây leo trong khu vực nghiên cứu, có 62 loài thân thảo chiếm 73,81%; cây dây leo chiếm 26,19%. Chi tiết được trình bày ở bảng 5. Bảng 5. Số lượng và tỷ lệ cây thuốc thân thảo và dây leo tại NCT Dạng sống Thân thảo Dây leo Tổng số loài thu được Số lượng loài 62 22 84 Tỷ lệ (%) 73,81 26,19 100 Ghi chú: Tỷ lệ % = Số lượng loài*100/Tổng số loài thu được. Nhóm cây thân thảo chiếm ưu thế và phát triển tốt, nhất là khu vực đường mòn và trảng cỏ, dưới tán rừng bán rụng lá chủ yếu tập trung ở các họ Asteraceae, Araceae, Poaceae, Zingiberaceae... Nhóm thứ 2 là dây leo với 22 loài chiếm 26,19% các loài chủ yếu mọc ở các trảng cây bụi, dưới tán rừng, nơi những cây gỗ lớn gãy đổ, thuộc các họ Apocynaceae, Menispermaceae, Piperaceae, Vitaceae. Đa dạng về bộ phận sử dụng của cây thuốc. Tùy mỗi loài cây mà bộ phận sử dụng làm thuốc có thể khác nhau: có cây chỉ sử dụng được một bộ phận, có cây dùng được hai hay nhiều bộ phận hoặc toàn bộ cây. Điều này phụ thuộc vào các hợp chất hóa học có tác dụng trong điều trị các bệnh khác nhau của cây thuốc. Căn cứ theo tài liệu của Đỗ Tất Lợi (2004) [8] và Võ Văn Chi (2019) [ 9], sự đa dạng về bộ phận sử dụng được thể hiện ở bảng 6. Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 22, 05-2021 23 Bảng 6. Đa dạng cây thuốc theo bộ phận sử dụng tại NCT TT Bộ phận dùng làm thuốc Số lượng loài Tỷ lệ (%) 1 Toàn cây 18 21,43 2 Thân, lá, hoa, quả 55 65,48 3 Rễ, củ 11 13,10 Tổng số loài khảo sát 84 100 Ghi chú: Tỷ lệ % = Số lượng loài*100/Tổng số loài thu được. Kết quả bảng 6 cho thấy, bộ phận dùng là thân, lá, hoa, quả có tới 55 loài chiếm 65,48% số loài được khảo sát. Chúng được sử dụng dưới dạng khô hoặc tươi như Nở ngày đất (Gomphena celosioides Mart), Mào gà dại (Celosia argentea L.), Thiên niên kiện (Homalomena romatica (Roxb.) Schott), Ngải dại (Artemisia vulgaris var. indica (Willd.) DC.), Hạ khô thảo nam (Blumea lacera (Burm.f.)DC.), Cải tàu bay (Gynura crepidioides Benth.), Vông vang (Hibiscus abelmoschus L.). Sử dụng toàn cây có 18 loài chiếm 21,43% các loài như Trầu rừng (Pipe chaudocanum C. DC.), Diệp hạ châu (Phyllathus urinaria L.), Hà thủ ô trắng (Streptocaulon juventas Merr.), Sâm lông (Cyclea barbata Miers.), Kim tiền thảo (Desmodium gangeticum Merr.),. Sử dụng rễ và củ có 11 loài chiếm 13,1% các loài nhưGừng gió (Zingibe zerumbet Sm.), Địa liền (Kaemfeia galanga L.), Nghệ đen (Curcuma zedoaria Rosc.), Củ mài (Dioscrorea pesimilis Prain et Burk.). Dựa theo tài liệu của Đỗ Tất Lợi (2004) [8], Võ Văn Chi (2019) [9] đã thống kê được 12 nhóm bệnh được chữa trị bằng cây thuốc khảo sát tại NCT. Trong đó 5 nhóm bệnh có số loài chữa bệnh trên 10 loài. Nhóm bệnh tiêu hóa, gan cao nhất 31 loài (36,9%) trên tổng số 84 loài khảo sát; nhóm bệnh xương khớp có 21 loài (25%); nhóm cây chữa tiết niệu, thận có 19 loài (22,62%); nhóm cây chữa hô hấp có 13 loài (15,48%), nhóm bệnh hạ sốt 12 loài (14,29%). Các nhóm bệnh còn lại như nhóm bệnh huyết áp; nhóm bệnh ngoài da; nhóm bệnh tiểu đường; nhóm bệnh phong thấp, phù tim; nhóm chữa bệnh côn trùng, rắn cắn; nhóm bệnh bướu cổ, tuyến giáp; nhóm bệnh tim mạch, an thần ít hơn, chi tiết được thể hiện ở bảng 7. Bảng 7. Đa dạng các nhóm công dụng của cây thuốc chữa bệnh tại NCT TT Nhóm công dụng của cây thuốc Số lượng loài Tỷ lệ (%) 1 Bệnh tiêu hóa, gan 31 36,90 2 Bệnh xương khớp, nhức mỏi 21 25,00 3 Bệnh tiết niệu, thận 19 22,62 4 Bệnh hô hấp 13 15,48 5 Hạ sốt 12 14,29 6 Bệnh huyết áp 9 10,71 Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 22, 05-2021 24 TT Nhóm công dụng của cây thuốc Số lượng loài Tỷ lệ (%) 7 Bệnh ngoài da 7 8,33 8 Bệnh tiểu đường 6 7,14 9 Bệnh phong thấp, phù tim 4 4,76 10 Chữa rắn, côn trùng cắn 3 3,57 11 Bệnh bướu cổ, tuyến giáp 2 2,38 12 Bệnh tim mạch, an thần 1 1,19 Tổng số loài khảo sát 84 100 Ghi chú: Tỷ lệ % = Số lượng loài*100/Tổng số loài thu được. Theo thống kê tại bảng 7 thấy rằng, nếu cộng tổng số loài chữa bệnh sẽ là 128 loài so với 84 loài khảo sát được. Có sự chênh lệch con số này vì có một số loài đồng thời chữa được từ 2 nhóm bệnh trở lên, nhưng cũng có những loài chỉ chữa được một nhóm bệnh. 3.2. Sự biến động cây thuốc thân thảo và dây leo tại NCT theo theo sinh cảnh và theo mùa Sinh cảnh sống của cây thuốc thân leo và thân thảo được chia làm 2 sinh cảnh là đường mòn, trảng cỏ và rừng (bảng 8). Bảng 8. Phân bố cây thuốc thân thảo và dây leo theo sinh cảnh ở NCT TT Sinh cảnh sống Số lượng loài Tỷ lệ (%) 1 Đường mòn, trảng cỏ 48 57,14 2 Rừng (tự nhiên, tái sinh, trồng) 36 42,86 Tổng số loài khảo sát 84 100 Ghi chú: Tỷ lệ % = Số lượng loài*100/Tổng số loài thu được. Có 48 loài thu được ở sinh cảnh đường mòn, trảng cỏ, hoặc nơi những cây gỗ lớn bị gãy đổ. Điển hình như các loài Ngải dại (Artemisia vulgaris var. indica (Willd.) DC.), Cải trời (Blumea lacera (Burm.f.) DC.), Hy thiêm (Siegesbeckia orientalis L.), Cải tàu bay (Gynura crepidioidesBenth.),Cỏ hôi (Ageratum conyzoides L.), Cam thảo nam (Scoparia dulcis L.), Cỏ xước (Achyranthes aspera L.). Có 36 loài khác gặp ở sinh cảnh rừng như Ngưu tất (Achyranthes bidentata Blume.), Mào gà trắng (Celosia argentea L.), Hà thủ ô nam (Streptocaulon grifflthii Hook.f.), Kim tiền thảo (Desmodium styracifolium (Osb.) Merr.), Trầu rừng (Piper chaudocanum C. DC). Một số loài như Sâm lông (Cyclea barbata Miers.),Ruột gà có khớp (Borreria articularis (L.f.) F. N. Will), Thiên niên kiện (Homalomena romatica (Roxb). Schott.), Ráy leo (Rhaphidophora hongkongensis), Kim cang lá quế (Smilax corbularia Kunth.) mọc trong rừng nguyên sinh. Các loài cây thuốc mọc trong rừng tự nhiên thường đóng vai trò quan trọng trong các bài thuốc dân gian và là đối tượng cần quan tâm bảo tồn. Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 22, 05-2021 25 Nghiên cứu sự biến động cây thuốc theo mùa tại NCT thấy có 40 loài gặp vào mùa mưa, có 44 loài gặp cả 2 mùa (bảng 9). Bảng 9. Phân bố cây thuốc theo mùa ở NCT TT Mùa phân bố Số lượng loài Tỷ lệ (%) 1 Cả 2 mùa (mưa và khô) 44 52,38 2 Chỉ gặp mùa mưa 40 47,62 Tổng số loài khảo sát 84 100 Ghi chú: Tỷ lệ % = Số lượng loài*100/Tổng số loài thu được Mùa khô gặp các loài dây leo có rễ củ sâu như củ mài (Dioscorea persimilis Prain et Burk.); các loài thuộc họ Gừng (Zingiberaceae); Sâm lông (Cyclea barbata Miers.); Kim cang lá quế (Smilax corbularia Kunth); Trầu rừng (Piper chaudocanum C. DC); Trâm ổi (Lantana camara L.); Hà thủ ô nam (Streptocaulon juventas Merr.).Mùa mưa các cây gặp vào mùa khô tiếp tục phát triển, đồng thờigặp các cây thân thảo thuộc họ Cúc, họ Nho, họ Rau đắng đất, họ Vòi voi, họ Bầu bí, họ Thầu dầu, họ Tai voi, họ Lúa, họ Cà phê. Các loài thực vật gặp trong môi trường khắc nghiệt của mùa khô là cây sống đa niên hoặc có rễ dài và thường mọc ở trong rừng, là những loài cần được quan tâm bảo tồn. 4. KẾT LUẬN - Bước đầu đã xác định được 84 loài thân thảo và dây leo thuộc 65 chi và 34 họ của 2 ngành thực vật bậc cao có mạch là Mộc lan (Magnoliophyta) và Dương xỉ (Polypodiophyta) có tác dụng làm thuốc tại NCT. Trong đó, Ngành Mộc lan chiếm 98,81% số loài, 98,46% số chi và 97,06% số họ cây thuốc điều tra. Có 15 họ đơn loài, 19 họ có từ 2 đến 9 loài. Có 58 chi đơn loài, 2 chi có 3 loài và 10 chi 2 loài. Hai lớp trong ngành Mộc lan có sự phân hóa mạnh: 87,95% số loài; 81,82% số chi và 84,38% số họ thuộc lớp 2 lá mầm. Tỷ lệ loài giữa lớp Mộc lan và lớp Hành là 4,5; bậc chi là 5,4 và bậc họ là 7,3. - Ghi nhận 62 loài thân thảo, 22 loài dây leo dùng làm thuốc. Ba nhóm bộ phận của cây dùng làm thuốc là toàn cây, thân lá hoa quả; rễ, củ lần lượt là 21,43%, 65,48%, và 13,1%. - Các loài cây thuốc tại đây có khả năng chữa trị 12 nhóm bệnh khác nhau. Có 42,86% cây thuốc mọc ở trong rừng, 57,14% mọc ở trảng cỏ, đường mòn. Có sự biến động tài nguyên cây thuốc theo mùa, có 40 loài chiếm 47,42% chỉ mọc vào mùa mưa, có 44 loài chiếm 52,38% mọc cả mùa khô và mùa mưa. Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 22, 05-2021 26 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Tiến Bân và cs., Sách đỏ Việt Nam (phần II-Thực vật), Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội, 2007, 305 tr. 2. Đỗ Huy Bích và cs., Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập I-II,Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1993, Tập 1 tr.79-1061, Tập 2 tr.75-1157. 3. Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb. Y học, 2004, tr.30- 936. 4. Nguyễn Nghĩa Thìn, Thực vật có hoa, Nxb. ĐHQG Hà Nội, 2007, tr.125-149. 5. Nguyễn Nghĩa Thìn, Các phương pháp nghiên cứu thực vật, Nxb. ĐHQG Hà Nội, 2007, tr.5-19. 6. Nguyễn Thị Vân,Nghiên cứu khả năng thích ứng với điều kiện ánh sáng của loài sâm lông (Clyclea barbata Miers) trồng thử nghiệm từ hạt và rễ tại Vườn Quốc gia Cát Tiên,Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, 2016, 2(10):61-70. 7. Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ Việt Nam, tập I, II, II, Nxb. Trẻ, 2003, tập 1 tr. 11- 991, Tập 2 tr. 11-929, Tập 3 tr.11-979. 8. Võ Văn Chi, Từ điển cây thuốc Việt Nam,(Bộ mới), tập I, II,Nxb. Y học, 2019, Tập 11760tr.; Tập 21622tr. 9. WHO-IUCN-WWF (1993), Guidelines on The conversation of medicinal plants, IUCN, Switzerland, tr.4-15. 10. (Danh lục Thực vật Cát Tiên), 2020. SUMMARY RESOURCES OF HERBACEOUS AND CLIMBING MEDICINAL PLANTS IN NAM CAT TIEN, CAT TIEN NATIONAL PARK This study investigates the diversity and seasonal composition variation of medicinal plants, including herbaceous and climbing species, in Nam Cat Tien in order to find new sources of medicinal herbs and record data for management and biodiversity conservation. The study was conducted from November 2019 to November 2020 using the field survey methods to examine five pathways in Nam Cat Tien. Overall, the survey identified 84 species of medicinal plants belonging to 34 families of Polypodiophyta and Magnoliophyta, these were collected from natural forest, planted forest and and trails in Nam Cat Tien. Specifically, Magnoliophyta accounted for the highest number of species with 83 species belonging to 33 families. The surveyed species could be classified into two groups regarding their growth habits in which the highest group was herbaceous plant (62 species), the Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 22, 05-2021 27 climbing plants with 22 species. Most plants were densely located along the trails (48 species) and inside the forest (36 species). Almost all the plant parts like leaves (55 species), roots (9 species) and even whole plants have reported containing medical properties to alleviate 12 groups of diseases. Species composition of herbaceous and climbing medicinal plants in Nam Cat Tien have seasonal variations. Keywords: Cây dược liệu, thân thảo, dây leo, biến động theo mùa, đa dạng thành phần loài, Nam Cát Tiên, Vườn quốc gia Cát Tiên. Nhận bài ngày 14 tháng 12 năm 2020 Phản biện xong ngày 18 tháng 01 năm 2021 Hoàn thiện ngày 24 tháng 02 năm 2021 (1) Chi nhánh phía Nam, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga (2) Viện Sinh thái học miền Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
File đính kèm:
- tai_nguyen_cay_thuoc_than_thao_va_day_leo_tai_nam_cat_tien_v.pdf