Tác động tích cực đến sinh kế của cộng đồng sau khi thành lập khu bảo tồn loài - sinh cảnh Phú Mỹ, huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang
Nghiên cứu thực hiện từ tháng 7/2017 đến tháng 01/2018 nhằm đánh giá tác động kinh tế - Xã hội đối với cộng đồng sau khi thành lập Khu Bảo tồn (KBT) Loài-Sinh cảnh Phú Mỹ, huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang. Sự thay đổi kinh tế - xã hội tại xã Phú Mỹ được phân tích, đánh giá từ kết quả điều tra năm 2017 và so sánh với kết quả điều tra năm 2006 và 2011. Kết quả cho thấy, từ năm 2006 đến 2017 trình độ học vấn của người dân đã cải thiện nhưng vẫn còn thấp. Tổng thu nhập của nông hộ vào năm 2017 là 61.925.000 đồng/năm, tăng 61,3% so với năm 2006 và tăng 46,7% so với năm 2011. Trong đó, hai ngành nghề đem lại thu nhập chính của người dân là làm ruộng (6,6%) và khai thác cỏ Bàng (43,4%). Với diện tích đất sản xuất lúa có xu hướng tăng, tuy nhiên không mang lại thu nhập ổn định. Diện tích cỏ Bàng (Lepironia articulata) có giá trị kinh tế giảm còn 498,89 ha so với năm 2004 là 753 ha, nhưng thu nhập từ cỏ Bàng vào năm 2017 cao hơn so với năm 2006 và 2011. Tỷ lệ người tham gia làm nghề liên quan tới cỏ Bàng ngày càng tăng với mức tăng từ 10,6% năm 2006, lên 31% năm 2011, lên 42,25% năm 2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy cỏ Bàng đóng vai trò quan trọng trong sinh kế của người dân địa phương do đó việc thành lập KBT không ảnh hưởng đến sinh kế của người dân, mà còn mang lại nhiều cơ hội sinh kế hơn so với trước khi thành lập khu bảo tồn
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động tích cực đến sinh kế của cộng đồng sau khi thành lập khu bảo tồn loài - sinh cảnh Phú Mỹ, huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang
ịnh nhất nhưng nó lại mang đến nguy cơ khai thác cỏ Bàng quá mức, đặc biệt là sau khi thành lập KBT. Trong các hoạt động kinh tế liên quan đến cỏ Bàng, hoạt động làm trung gian buôn bán cỏ Bàng mang lại thu nhập cao nhất, kế đến là hoạt động trồng cỏ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 2 - TH¸NG 11/2020 130 Bàng. Đối với hoạt động nhổ cỏ Bàng và đan các sản phẩm từ cỏ Bàng có thu nhập trung vị bằng nhau, nhưng hoạt động nhổ cỏ Bàng có thu nhập trung bình cao hơn so với hoạt động đan các sản phẩm từ cỏ Bàng vì ở hoạt động nhổ cỏ Bàng người dân sau khi khai thác có thể bán ngay cỏ Bàng tươi hoặc phơi khô. Đồng thời thu nhập từ hoạt động nhổ cỏ Bàng còn phụ thuộc vào tần suất đi nhổ cỏ Bàng, bên cạnh đó người dân còn có thể trữ lại cỏ Bàng để đan đệm hoặc làm các sản phẩm khác để bán cho thương lái hay KBT. Đối với hoạt động đan các sản phẩm từ cỏ Bàng có thu nhập thấp hơn là do việc đan thành sản phẩm cũng tương đối tốn thời gian hơn khai thác cỏ Bàng và một số nông hộ phải bỏ vốn để mua thêm Bàng làm nguyên liệu. Ngoài ra, hoạt động chăn nuôi có thu nhập trung bình là 4.200.000 đồng/năm, làm công nhân có thu nhập trung bình là 39.579.000 đồng/năm, làm thuê có thu nhập trung bình là 29.633.000 đồng/năm, buôn bán có thu nhập trung bình là 60.343.000 đồng/năm, công chức có thu nhập trung bình là 46.000.000 đồng/năm. Bên cạnh đó còn có các nghề khác có tổng thu nhập trung bình là 10.000.000 đồng/năm. 3.2.1. Những thay đổi liên quan đến sản xuất lúa Thay đổi về diện tích đất canh tác: Từ kết quả khảo sát nông hộ về diện tích đất năm 2017, tổng hợp và so sánh diễn biến thay đổi diện tích đất qua các năm được thể hiện ở bảng 7. Bảng 7. Diễn biến diện tích đất canh tác của hộ dân qua các năm 2006* 2011** 2017 Diện tích (m2) Số hộ Tỷ lệ (%) Số hộ Tỷ lệ (%) Số hộ Tỷ lệ (%) 1.000 – 5.000 10 10 19 17,1 25 26,3 5.000 -10.000 24 24 28 25,2 30 31,6 10.000 – 20.000 33 33 27 24,3 19 20,0 20.000 – 30.000 18 18 13 11,7 6 6,3 > 30.000 13 13 18 16,2 15 15,8 Không có đất 2 2 6 5,4 0 0 Tổng cộng 100 100 111 100 95 100 (Nguồn: * Lê Hồng Thía, 2006 và **Trần Triết và ctv, 2011) Bảng 7 cho thấy số hộ dân không có đất canh tác năm 2017 đã không còn so với 2% của năm 2006 và 5,4% năm 2011, tỷ lệ diện tích 1.000 - 5.000 m2 (10 công = 01 ha), 5.000 - 10.000 m2 tăng lần lượt 16,3%; 7,6% so với năm 2006 và tăng lần lượt 9,2%, 6,4% so với năm 2011. Đối với số hộ dân có diện tích từ 10.000 m2 đến 30.000 m2 ở năm 2017 giảm 24,7% so với năm 2006, số hộ dân có diện tích >30.000 m2 năm 2017 lại tăng 2,8% so với năm 2006. Tuy nhiên số hộ dân có diện tích lớn hơn 10.000 m2 ở năm 2017 lại giảm 10,1% so với 2011 (10.000 - 20.000 m2 giảm 4,3%, 20.000 - 30.000 m2 giảm 5,4%, > 30.000 m2 giảm 0,4%) một điều cho thấy số hộ có diện tích dưới 10 công ruộng lại chiếm tỷ lệ khá cao so với các tỷ lệ người có diện tích lớn hơn. Như vậy đối với những hộ không có đất hoặc ít đất canh tác có xu hướng mua thêm đất sản xuất, còn những hộ có diện tích đất giảm chủ yếu do chia cho con, bán đi hoặc giao đất cho KBT. Năm 2017 có tổng cộng 95 hộ tham gia sản xuất, trong đó ấp Trần Thệ chiếm tỷ lệ cao nhất với 61,3% tăng 3% so với năm 2011 (Trần Triết và ctv, 2011) và tăng 1,7% so với năm 2006 (Lê Hồng Thía, 2006); thấp nhất là ấp Kinh Mới có tỷ lệ hộ dân tham gia thấp nhất 6,3%. Nguyên nhân là do ấp Kinh Mới vùng này bị nhiễm phèn nhiều, không thích hợp cho việc trồng lúa, người dân phải tốn nhiều chi phí cho việc cải tạo đất. Thay đổi kinh tế trong sản xuất lúa: Bảng 8. Thu nhập từ sản xuất lúa trong một năm (đơn vị tính: đồng/1000 m2/năm) Thu nhập Trần Thệ Kinh Mới Trà Phọt Thấp nhất -960.000 6.620.000 -5.770.000 Cao nhất 20.000.000 24.360.000 24.370.000 Trung bình 6.900.000 13.150.000 7.100.000 Trung vị 5.410.000 11.610.000 6.790.000 Kết quả khảo sát cho thấy thu nhập từ hoạt động sản xuất lúa trong một năm tính trên 1000 m2 đất canh tác, trung bình thu nhập sản xuất lúa tại ấp KHOA HỌC CÔNG NGHỆ N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 2 - TH¸NG 11/2020 131 Kinh Mới cao nhất là 13.150.000 đồng/1000 m2/năm, kế đến là ấp Trà Phọt có thu nhập trung bình là 7.100.000 đồng/1000m2/năm và thấp nhất là ấp Trần Thệ có thu nhập trung bình là 6.900.000 đồng/1000 m2/năm. Hơn nữa, tổng thu nhập trung vị của 1 năm canh tác lúa của ấp Kinh Mới có thu nhập cao nhất là 134.500.000 đồng/năm, trong đó ấp Trần Thệ và ấp Trà Phọt thu nhập trung vị bằng nhau là 9.000.000 đồng/năm. Kết quả khảo sát (Bảng 9) cho thấy qua 3 năm 2006, 2011, 2017 thu nhập từ sản xuất lúa ở ấp Kinh Mới cao nhất so với 2 ấp Trần Thệ và Trà Phọt. Mặc dù ấp Trần Thệ có tỷ lệ nông hộ tham gia sản xuất lúa nhiều nhất (chiếm 61,05%) nhưng thu nhập trung bình lại thấp nhất, ngược lại ấp Kinh Mới có tỷ lệ nông hộ tham gia sản xuất lúa thấp nhất (chiếm 6,32%) nhưng lại có năng suất lúa cao nhất và thu nhập trung bình từ sản xuất lúa cao nhất. Nguyên nhân là do ảnh hưởng bởi điều kiện thổ nhưỡng, thủy văn, hình thức canh tác và sự tiếp thu khoa học kỹ thuật, lựa chọn giống lúa cho canh tác. Bảng 9. So sánh thu nhập từ sản xuất lúa qua các năm 2006, 2011, 2017 (đơn vị: đồng/năm) Thu nhập (đồng/năm) Ấp Trung vị 2006 Trung vị 2011 Trung vị 2017 Trần Thệ 8.758.000 35.750.000 9.000.000 Kinh Mới 16.000.000 66.528.000 134.500.000 Trà Phọt 9.000.000 33.679.000 9.000.000 (Nguồn: Lê Hồng Thía, 2006 và Trần Triết và ctv, 2011) Về giá bán lúa, kết quả điều tra cho thấy thị trường giá lúa qua các năm có nhiều biến động không ổn định, giá lúa năm 2006 là 2.400 đồng/kg đến năm 2011 giá lúa tăng lên 5.282 đồng/kg nhưng đến năm 2017 giá lúa biến động giảm còn 4.850 đồng/kg. Qua phân tích kinh tế, làm ruộng không mang lại thu nhập ổn định cho cộng đồng và những thay đổi kinh tế về sản xuất lúa trong những năm gần đây có thể xuất phát từ quá trình sản xuất của người dân. 3.2.2. Những thay đổi liên quan đến cỏ Bàng Thay đổi về diện tích: Năm 2004 tổng diện tích đất cỏ Bàng có giá trị kinh tế có thể khai thác được khoảng 753 ha (Trần Triết và ctv, 2004). Tuy nhiên theo khảo sát năm 2017, diện tích cỏ Bàng tự nhiên 498,89 ha, giảm 254,11 ha so với năm 2006, ngoài ra trong số 112 hộ khảo sát có tổng cộng 24,62 ha diện tích đất của 11 hộ dân, tập trung tại ấp Trần Thệ có 6 hộ (chiếm 54,6%), ấp Trà Phọt có 6 hộ (36,3%) và ấp Kinh Mới có 1 hộ (chiếm 9,1%). Qua quá trình điều tra khảo sát cho thấy hiện nay do nhu cầu cỏ Bàng ngày càng nhiều nên xuất hiện tình trạng người dân khai thác cỏ Bàng quá mức, người dân thường nhổ luôn cả cỏ Bàng nhỏ không đủ kích thước cho phép để làm nguyên liệu, điều này đe doạ khả năng phát triển và tự phục hồi của đồng cỏ Bàng. Thêm vào đó, hiện nay việc nhổ cỏ Bàng trong KBT đã không còn cấm nên số lượng hộ dân nhổ cỏ Bàng trong KBT ngày một gia tăng. Xã Phú Mỹ nằm giáp ranh Campuchia nên không tránh khỏi việc người dân nước bạn qua bên xã Phú Mỹ nhổ cỏ Bàng, điều này gây sức ép rất lớn đến KBT. Bảng 10. Thu nhập từ các hoạt động khai thác cỏ Bàng năm 2017 Thu nhập (đồng/năm) Hoạt động Thấp nhất Cao nhất Trung bình Trung vị Nhổ cỏ bàng 1.000.000 113.950.000 13.558.000 7.000.000 Đan các sản phẩm từ cỏ Bàng 600.000 40.000.000 8.626.000 7.000.000 Trồng cỏ Bàng 10.400.000 31.200.000 20.533.000 20.000.000 Làm trung gian mua bán cỏ Bàng 30.000.000 240.000.000 122.000.000 96.000.000 Thay đổi về mặt kinh tế: Các hoạt động về khai thác cỏ Bàng cũng đem lại nguồn thu nhập khá ổn định cho nông hộ được thể hiện ở bảng 10. Hiện nay đối với những người dân khai thác cỏ Bàng từ đất của Khu bảo tồn thì không phải trả chi phí. Trung bình thu nhập từ hoạt động nhổ cỏ Bàng là 13.558.000 đồng/năm, đan các sản phẩm cỏ Bàng là 8.626.000 đồng/năm, hoạt động trồng cỏ Bàng khoảng 20.533.000 đồng/năm, hoạt động làm trung gian mua bán sản phẩm từ cỏ Bàng là 122.000.000 đồng/năm (Bảng 9). Đa phần các nông hộ xem làm ruộng là nghề chính mang lại thu nhập, các hoạt động cỏ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 2 - TH¸NG 11/2020 132 Bàng chỉ là phụ, tuy nhiên sau khi phân tích thì các hoạt động khai thác cỏ Bàng đem lại cho họ nguồn thu lớn so với làm lúa khi họ bị thất mùa, năng suất thấp hay các hộ có diện tích sản xuất lúa nhỏ. Đối với việc nhổ cỏ Bàng giai đoạn 2006 - 2011 có thu nhập trung bình tăng 45,8% và tiếp tục tăng 61,4% (2011-2017), thu nhập trung vị qua các năm 2006, 2011, 2017 cũng tăng khá cao lần lượt là 2.200.000 đồng/năm, 4.500.000 đồng/năm, 7.000.000 đồng/năm (Lê Hồng Thía, 2006 và Trần Triết và ctv, 2011). Đối với hoạt động đan các sản phẩm từ cỏ Bàng năm 2006 có thu nhập trung bình tăng 69,3% so với năm 2011 và năm 2017 tăng 8% so với năm 2011. Thu nhập trung vị từ hoạt động đan các sản phẩm cỏ Bàng qua các năm 2006, 2011, 2017 cũng tăng lần lượt là 2.013.000 đồng/năm, 6.300.000 đồng/năm, 7.000.000 đồng/năm (Lê Hồng Thía, 2006 và Trần Triết và ctv, 2011). Thu nhập từ hoạt động khai thác cỏ Bàng và đan các sản phẩm từ cỏ Bàng ngày càng tăng nguyên nhân là do nhận thức xã hội hướng tới sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên và duy trì các làng nghề truyền thống. Như vậy, việc thành lập KBT không ảnh hưởng đến sinh kế của người dân trong khu vực. Người dân chỉ không được phép tiếp cận sâu vào trong khu bảo vệ nghiêm ngặt, còn các khu còn lại thì họ vẫn được đi lại bình thường. Trong khi đó, ranh giới của khu bảo vệ nghiêm ngặt được xác định dựa trên ranh giới giữa khu vực người dân khai thác cỏ Bàng và khu vực người dân không khai thác. Do đó, khu bảo vệ nghiêm ngặt được thành lập trên khu vực mà người dân chưa khai thác giá trị kinh tế của nó. Ngược lại, tạo nhiều cơ hội sinh kế hơn cho cộng đồng xung quanh như thúc đẩy du lịch sinh thái phát triển thì tạo ra nhiều việc làm cho người dân địa phương. Tuy nhiên, vì nhu cầu thị trường về các sản phẩm cỏ Bàng ngày càng tăng sẽ kéo theo việc người dân khai thác cỏ Bàng làm nguyên liệu ngày càng tăng, đây sẽ là yếu tố đe doạ khả năng sinh trưởng và phục hồi tự nhiên đồng cỏ Bàng tại KBT Phú Mỹ. 4. KẾT LUẬN Từ năm 2006 đến 2017 đời sống cộng đồng người dân sống xung quanh khu vực KBT thuộc xã Phú Mỹ đã có nhiều thay đổi về mặt xã hội và kinh tế. Trình độ học vấn ở năm 2017 đã được cải thiện nhưng vẫn còn ở mức thấp. Tại địa phương có hơn 11 ngành nghề trong đó tỷ lệ người dân làm công việc liên quan đến cỏ Bàng chiếm tỷ lệ cao nhất và có xu hướng tăng so với năm 2006. Tổng thu nhập của các nông hộ từ năm 2006 đến 2017 có xu hướng ngày càng tăng chủ yếu dựa vào việc khai thác cỏ Bàng. Năm 2017, diện tích cỏ Bàng tự nhiên hiện tại ở Khu bảo tồn giảm còn khoảng 498,89 ha với mức độ khai thác ngày càng tăng. Tuy nhiên, thu nhập từ hoạt động liên quan đến cỏ Bàng cao hơn so với năm 2006 và 2011. Như vậy, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng việc thành lập khu bảo tồn và tổ chức quản lý tốt việc khai thác cỏ Bàng có thể giúp cộng đồng dân cư cải thiện sinh kế, góp phần phát triển bền vững khu bảo tồn. Cần phải có giải pháp ổn định diện tích, năng suất cỏ Bàng trong khu bảo tồn để đảm bảo yêu cầu duy trì và gia tăng sinh kế cộng đồng đặt ra vấn đề nghiên cứu các mô hình dưỡng cỏ Bàng trong tương lai nhằm duy trì sự phát triển ổn định của khu bảo tồn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dương Văn Ni, 2013. Báo cáo dự án “Thành lập Khu Bảo tồn Loài – Sinh cảnh Phú Mỹ, Giang Thành, Kiên Giang”. Trung tâm Nghiên cứu, Thực nghiệm, Đa dạng sinh học Hòa An. 2. Lê Hồng Thía, 2006. Bảo tồn đồng cỏ Bàng (Lepironia articulata) bằng việc phát triển kinh tế - xã hội cho cộng đồng tại xã Phú Mỹ, huyện Kiên Lương, Tỉnh Kiên Giang. 3. Trần Triết và ctv, 2001. Bảo tồn và sử dụng tài nguyên đa dạng sinh học vùng đất ngập nước Hà Tiên - Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. Trường Đại học Khoa học Tự nhiên. 4. Trần Triết và ctv, 2004. Báo cáo Dự án nghiên cứu khả thi khai thác bền vững đồng cỏ Bàng kết hợp bảo tồn nghề thủ công địa phương, xã Phú Mỹ, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. Hội Sếu quốc tế, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên thành phố Hồ Chí Minh 5. Trần Triết và ctv, 2011. Xây dựng kế hoạch thành lập Khu Bảo tồn Loài – Sinh cảnh Phú Mỹ, Kiên Giang. 6. United Nations Development Programme, 2012. Phu My Lepironia Wetland Conservation Project, Viet Nam. Equator Initiative Case Study Series. New York, NY. 7. Ủy ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang, 2010. Quyết định số 1380/VP-KTCN về việc thành lập Khu Bảo tồn Thiên nhiên Phú Mỹ. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 2 - TH¸NG 11/2020 133 POSITIVE IMPACT ON COMMUNITY'S LIVELIHOOD AFTER THE ESTABLISHMENT OF THE SPECIES-HABITAT CONSERVATION IN PHU MY COMMUNE, GIANG THANH DISTRICT, KIEN GIANG PROVINCE Nguyen Thanh Giao1, Huynh Thi Hong Nhien1, Tran Le Ngoc Tram1, Duong Van Ni1 1College of Environment and Natural Resources, Can Tho University Email: ntgiao@ctu.edu.vn Summary The study was conducted from july 2017 to january 2018 to assess the economic and social impacts to the community after establishing the species-habitat conservation area in Phu My commune, Giang Thanh district, Kien Giang province. The socio-economic changes in Phu My commune were analyzed and evaluated using the results of the current study and compared with the survey data of 2006 and 2011. The results showed that the education level of the community from 2006 to 2017 has been improved but it is still low. The total income of the households in 2017 was 61,925,000 VND/year, increased by 61.3% compared to that of 2006 and increased by 46.7% compared to 2011. In which, the two activities that provide the main income for people are rice cultivation (6.6%) and harvest of bang grass (Lepironia articulata) (43.4%). The area of rice production land tended to increase, but it did not bring stable income for the farmers. The area of Lepironia articulata decreased to 498.89 ha compared to that of 2004 (753 ha), but the income from harvesting Lepironia articulata in 2017 was higher than those in 2006 and 2011. The percentage of people involved in Lepironia articulate harvesting increased from 10.6% in 2006 to 31% in 2011, to 42.25% in 2017. The findings indicated that Lepironia articulate plays important role in serving income for the local people, therefore, the establishment of the conservation does not affect people's livelihoods, but bring about more livelihood opportunities compared to the time before the conservation established. Keywords: Rice production, Lepironia articulata, socio-economic, Phu My Species - Habitat Conservation Area. Người phản biện: TS. Chu Văn Hách Ngày nhận bài: 17/02/2020 Ngày thông qua phản biện: 18/3/2020 Ngày duyệt đăng: 25/3/2020
File đính kèm:
- tac_dong_tich_cuc_den_sinh_ke_cua_cong_dong_sau_khi_thanh_la.pdf