Tác động của mức xâm nhập cao của các nhà máy điện mạt trời kĩ thuật quang điện lên lưới điện
Trong các năm qua, các nguồn phát điện từ năng lượng tái tạo, từ năng lượng gió
và năng lượng mặt trời, đã và đang dần được đấu nối càng nhiều vào lưới điện hiện hữu của Việt
Nam. Trước đây, khi số lượng của các nhà máy điện từ năng lượng tái tạo (NMĐ NLTT) chưa nhiều
và công suất còn nhỏ bé, vấn đề tác động của mức độ xâm nhập của các NMĐ NLTT lên hệ thống
là không đáng kể, và chưa phải là vấn đề về phương diện ổn định đối với hệ thống điện (xét về mặt
ổn định điện áp, tần số). Tuy vậy, với tình trạng thực tế hiện nay, kể từ năm 2019 trở đi, mức xâm
nhập của các nhà máy điện kĩ thuật quang điện (NMĐ QĐ, photovoltaic power plants) trên qui mô
công suất lớn ngày càng tăng cao, và điều này sẽ ảnh hưởng đến độ ổn định, tin cậy, an ninh và của
lưới điện. Trong bài báo sẽ trình bày, phân tích các tác động khi mức xâm nhập tăng dần của các hệ
thống phát điện quang điện lên vấn đề ổn định điện áp trong trạng thái xác lập, tổn thất công suất,
cũng như vấn đề ổn định động của lưới điện trong trạng thái quá độ. Các kịch bản với các mức độ
xâm nhập khác nhau tăng dần của các NMĐQĐ đã được thực hiện trên một mô hình hệ thống điện
thử nghiệm IEEE, từ đó có các kết quả cho các phân tích, kết luận mang tính điển hình được đưa ra
đối với các tác động của mức thâm nhập ngày càng cao vào lưới điện.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của mức xâm nhập cao của các nhà máy điện mạt trời kĩ thuật quang điện lên lưới điện
ổi công suất và bộ biến tần tăng lên nhiều, so với sơ đồ sử dụng biến tần tập trung. Ví dụ, một NMĐQĐ sơ đồ kiểu biến tần tập trung với công suất 37 MW sử dụng 50 bộ biến tần trung tâm, trong khi một NMĐQĐ khác với công suất tương đương, với sơ đồ kiểu biến tần nhiều chuỗi, cần đến 3069 bộ biến tần nhiều chuổi. Feo [5] sơ đồ kiểu biến tần tập trung có hiệu suất thấp hơn 1.5% so với sơ đồ biến tần nhiều chuỗi, nhưng tổng chi phí đầu tư và bảo trì của sơ đồ sau lại cao hơn 60%. Đặc điểm của HTQĐ đấu nối với lưới điện Các đặc điểm quan trọng nhất khi vận hành các HTQĐ, NMĐQĐ đấu nối với lưới điện và các qui định đấu nối liên quan như sau, cho đến thời điểm hiện nay [5]: • Các NMĐQĐ khi đấu nối sẽ góp phần cung cấp điện năng vào hệ thống, điều này làm giảm tải cho các NMĐ truyền thống. • Hầu hết các bộ BTQĐ không có, hoặc khá hạn chế, khả năng hỗ trợ việc ổn định điện áp/ công suất phản kháng trên lưới. Các NMĐQĐ khi đấu nối thường hoạt động ở hệ số công suất bằng 1.0, chỉ cung cấp công suất tác dụng, và hệ thống điện có trách nhiệm điều khiển công suất phản kháng. • Feo các tiêu chuẩn hiện hành như IEEE 1547, khi tần số/điện áp sai lệch so với tiêu chuẩn, NMĐQĐ phải được cách ly tự động khỏi lưới điện cho đến khi trở lại điều kiện làm việc bình thường. • Cần tính đến các yếu tố địa lý, vị trí của NMĐQĐ và các yếu tố môi trường trong vận hành NMĐQĐ. Các yếu tố này có thể được chia thành hai thời khoảng: (1) ban ngày và (2) ban đêm. Vào ban ngày, hiệu quả công suất phát các NMĐQĐ có thể bị ảnh hưởng lớn bởi các thay đổi thời tiết như mây che bóng và nhiệt độ môi trường. Trời nhiều mây giảm đáng kể lượng bức xạ mặt trời và kéo theo thay đổi nhanh của công suất phát ra. Vào ban đêm, công suất phát từ các các NMĐQĐ sẽ không còn. Trường hợp có hệ thống tích trữ năng lượng (battery energy storage system= BESS), NMĐQĐ có thể tiếp BẢN TIN HỘI ĐIỆN LỰC MIỀN NAM - THÁNG 10 / 20194 tục cung cấp năng lượng cho lưới điện trong một thời gian. • Khả năng điều độ (dispatchable capacity) NMĐQĐ là rất hạn chế, trừ khi có hệ thống tích trữ năng lượng. • Sự phối hợp giữa các NMĐQĐ và các NMĐ thông thường khác là vấn đề cần đặc biệt quan tâm, nhất là việc quản lý công suất phản kháng khi có các NMĐQĐ công suất rất lớn đấu nối vào lưới điện. Như vậy, điểm khác biệt cơ bản đầu tiên giữa các NMĐQĐ so với các NMĐ truyền thống là khả năng điều độ. Các nhà máy điện truyền thống, như các nhà máy nhiệt điện, là điều phối được vì dễ dàng thay đổi sản lượng điện của chúng (tăng hoặc giảm) để đáp ứng các thay đổi về tải. Trong khi đó, các NMĐQĐ có sản lượng điện thay đổi và không ổn định, và tùy thuộc rất lớn vào thời tiết địa phương, và hoàn toàn không phát công suất vào ban đêm, do đó không có khả năng điều độ. Điểm khác biệt cơ bản khác giữa các NMĐQĐ so với các NMĐ truyền thống là khả năng đồng bộ hóa (synchronizing capacity), khả năng này có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng ổn định động của hệ thống, đặc biệt khi có các sự cố xảy ra trên lưới điện. Hệ thống điện hiện hữu chủ yếu bao gồm các NMĐ truyền thống dùng các máy phát điện đồng bộ công suất lớn có moment đồng bộ hóa (synchronizing torque) lớn, cùng với quán tính lớn của rôto đóng vai trò rất quan trọng và quyết định góc rôto của các máy phát ngay sau một sự cố xảy ra trên lưới điện. Các máy đồng bộ khi phát công suất tác động vào hệ thống làm duy trì tính đồng bộ, đồng thời làm tắt dần các dao động cơ học nhờ vào moment đồng bộ hóa và thành phần hãm của moment điện từ (khi có bất kì sự không đồng bộ giữa tốc độ rôto và từ trường quay trong máy phát). Chính sự hiện diện của các máy phát đồng bộ trong hệ thống điện với quán tính quay và moment đồng bộ hóa lớn, cùng với các hệ thống điều khiển là tác nhân cơ bản trong việc giảm thiểu sự mất cân bằng lớn về công suất tác động và công suất phản kháng xuất hiện trong lưới điện. Đặc tính cơ bản này của các hệ thống điện sẽ thay đổi đáng kể với sự xâm nhập ngày càng tăng của các NMĐ NLTT, trong đó các NMĐQĐ, với vai trò bộ biến tần thay thế cho các máy phát đồng bộ, được đấu nối vào lưới điện. Các bộ biến tần này biến đổi điện một chiều thành điện xoay chiều và quản lý dòng năng lượng chảy qua bằng cách điều khiển việc chuyển mạch các thiết bị bán dẫn công suất ở tần số khá cao (kHz). Khác hẳn với máy phát điện đồng bộ, bộ biến tần hoàn toàn là một thiết bị điện tử công suất và không chứa bất kỳ bộ phận quay nào, do đó không có quán tính quay và moment đồng bộ hóa để có thể trợ giúp vào việc ổn định động của hệ thống. Trong tương lai, các NMĐQĐ công suất lớn dự kiến sẽ phải có khả năng làm việc với các đặc tính hỗ trợ sự ổn định của lưới điện, tương tự như các nhà máy điện truyền thống [4]. Hiện tại, các NMĐQĐ khi đưa vào vận hành sẽ có các tác động đến sự ổn định và an ninh của lưới điện. Do đó, điều quan trọng là phân tích các vấn đề xâm nhập lớn của NMĐQĐ vào hệ thống điện.Hình 3. Sơ đồ đấu nối các biến tần: (a) kiểu trung tâm; (b) kiểu nhiều chuỗi. BẢN TIN HỘI ĐIỆN LỰC MIỀN NAM - THÁNG 10 / 2019 5 ,,&k&%ô,8.+,148l1/¨1 ô1+ /£, ô, 1 7521* 1+j 0k< ô, 1758<17+1* Hình 4 [2,3] là sơ đồ hình cây phân loại ổn định trong hệ thống điện truyền thống, theo ổn định góc rôto, ổn định tần số và ổn định điện áp. Độ ổn định của hệ thống điện có thể được chia thành ba loại chính: ổn định góc rôto, ổn định tần số và ổn định điện áp. Trong mỗi loại trên lại chia thành hai loại phụ: ổn định tín hiệu nhỏ (small-signal stability) và ổn định quá độ (transient stability). - Ổn định góc rôto là khả năng duy trì sự đồng bộ của các máy phát đồng bộ trong hệ thống điện kết nối, khi có nhiễu loạn xảy ra trong hệ thống. - Ổn định tần số là khả năng của một hệ thống điện duy trì tần số ổn định trong quá trình hoạt động bình thường và khôi phục tần số về giá trị trong sai lệch theo tiêu chuẩn, trong các tình huống của hệ thống khi có sự mất cân bằng lớn giữa công suất tải và công suất phát. - Ổn định điện áp là khả năng duy trì điện áp trong giới hạn qui định của hệ thống điện ở các thanh cái sau khi sự cố xảy ra để tránh hiện tượng sụp đổ điện áp dây chuyền, gây mất điện trên diện rộng. Các hệ thống điều khiển phía máy phát có nhiệm vụ duy trì trạng thái cân bằng, tăng cường và cải thiện độ ổn định, độ tin cậy của hệ thống điện khi có sự cố xảy ra trên lưới. Trong một nhà máy phát điện truyền thống với turbine/ máy phát điện đồng bộ thường có các quá trình điều khiển sau. A. Ổn định tần số và điều khiển công suất tác dụng 1) Giai đoạn đáp ứng quán tính lưới: Đây là giai đoạn đầu của đáp ứng tần số, ngay khi sự cố xảy ra trên lưới điện. Các máy phát đồng bộ với động năng quay (rotational kinetic energy) tích trữ dưới dạng quán tính rôto tạo nên quán tính của cả hệ thống. Quán tính hệ thống này là một đặc điểm vốn có quan trọng giúp vào việc ổn định động tần số [2,3]. 2) Giai đoạn điều khiển: với ba cấp điều khiển để điều khiển tần số theo sau sự cố và nhu cầu chức năng. a) Điều khiển sơ cấp (cấp 1) (primary control): thông qua cơ chế điều khiển của bộ điều chỉnh tốc độ (bộ điều tốc= speed governor) của tuabin nhằm tác động tuabine phản ứng nhanh với độ lệch tần số theo đặc tính giảm tốc độ-công suất của máy phát. b) Điều khiển thứ cấp (cấp 2) (secondary control): là tác động bổ sung của hệ thống Điều khiển tự động công suất phát (Automatic Generation Control= AGC) nhằm huy động công suất dự trữ để đưa tần số về giá trị danh định. AGC là hệ thống thiết bị tự động điều chỉnh tăng giảm công suất tác dụng của tổ máy phát điện nhằm duy trì tần số của hệ thống điện ổn định trong phạm vi cho phép và điều chỉnh dòng chảy công suất giữa các tổ hợp nhà máy điện theo nguyên tắc vận hành kinh tế tổ máy phát điện. c) Điều khiển cấp 3 (tertiary control): được huy động đến, khi có sự cố lớn, rộng khắp hệ thống điện mà không thể khắc phục bằng hệ điều khiển thứ cấp, và khi có nguồn dự trữ dồi dào của công suất phát của hệ thống. Tác động hiệu chỉnh của bộ điều tốc diễn ra trong vài giây, trong khi của bộ điều khiển thứ cấp sẽ lâu hơn, trong vài phút, và của bộ điều khiển cấp ba sẽ là chậm nhất. B. Ổn định điện áp và điều khiển công suất phản kháng Các máy phát đồng bộ luôn được trang bị bộ điều chỉnh điện áp tự động (automatic voltage control= AVR), theo kiểu vòng kín điều chỉnh dòng kích từ để điều khiển điện áp stato. Nhiệm vụ của bộ AVR: 1) Điều chỉnh điện áp ở trạng thái xác lập Hình 4. Phân loại các loại ổn định trong hệ thống điện [2,3] BẢN TIN HỘI ĐIỆN LỰC MIỀN NAM - THÁNG 10 / 20196 khi AVR trong mạch kích từ hoạt động ở chế độ điều khiển điện áp. 2) Bù và hỗ trợ công suất phản kháng VAR khi AVR trong hệ thống hoạt động ở chế độ VAR (quá kích từ hay dưới kích từ) giúp phát ra/ lấy vào công suất phản kháng. Ngoài ra, máy biến áp điều chỉnh nấc dưới tải hay không tải cũng được dùng trong mục đích trên [2,3]. C. Ổn định góc rôto máy phát đồng bộ 1) Ổn định góc tín hiệu nhỏ: Bộ ổn định hệ thống điện (Power System Stabilizer= PSS) trong hệ thống kích từ giúp cải thiện độ ổn định góc khi xảy ra nhiễu loạn nhỏ trong hệ thống [1,2]. 2) Cải thiện độ ổn định quá độ: Kích từ tác động nhanh cùng với PSS và một số điều khiển khác giúp cải thiện độ ổn định góc khi xảy ra nhiễu loạn lớn trong hệ thống [1,2]. ,,, + 7+1* 7+ 1*+, 0 %86 7521*(7$3 A. Mô hình hệ thống thử nghiệm IEEE 9 bus: Với mục đích đánh giá các tác động lên hệ thống điện hiện hữu với kịch bản khác nhau khi mức độ xâm nhập của các NMĐQĐ vào lưới tăng dần, sau đây sử dụng một mô hình hệ thống thử nghiệm IEEE với 9 thanh cái (bus) (P.M Anderson 9-bus IEEE test system) (Hình 5.a), với các mô phỏng được thực hiện trong phần mềm ETAP 12.6. Tuy hệ thống thử nghiệm có số lượng bus hạn chế, nhưng các kết quả nhận được sẽ giúp có cái nhìn tương đối tổng quát về các tác động điển hình cần phải quan tâm đến, khi mức độ xâm nhập của các NMĐQĐ vào lưới ngày càng tăng trong tương lai của các hệ thống điện rộng lớn hơn. Sau đây giới thiệu hệ thống 9 bus IEEE tích hợp với nguồn phát quang điện công suất lớn, cùng các kết quả và các phân tích đánh giá về các tác động lên hệ thống ứng với các kịch bản của mức xâm nhập khác nhau từ [1], “Grid Stability Analysis for High Penetration Solar Photovoltaics”, Ajit Kumar K, Dr. M. P. Selvan, K. Rajapandiyan. Hình 5.a là sơ đồ một sợi của hệ thống 9 bus , khi không tích hợp NMĐQĐ, với các giá trị điện áp tại các bus và trở kháng đường dây truyền tải. Hình 5.b cho thấy phân bố công suất của mạch cơ sở ở điều kiện xác lập, với các giá trị điện áp tại các bus, chiều và giá trị dòng công suất trên các đường dây. Hệ thống thử nghiệm này bao gồm 3 máy biến áp (MBA) hai cuộn dây 100 MVA/ MBA, 6 đường dây và 3 phụ tải (Load A@135.0 MVA, Load B@94.9 MVA và Load C@106.0 MVA). Các kV cơ sở được chọn là 13.8 kV, 16.5 kV, 18 kV và 230 kV. Sơ đồ một sợi của hệ thống 9 bus với NMĐQĐ cho trong Hình 6. B. Mô hình NMĐQĐ tích hợp trong hệ thống 9 bus Hệ thống thử nghiệm 9 bus hoàn chỉnh làm việc với NMĐQĐ được xây dựng trong ETAP. Mô hình NMĐQĐ 243 MWp (công suất đỉnh MPP= Maximum Power Point) được xây dựng từ các tấm pin công suất 200 Wp/tấm pin được nối tiếp/song song tạo thành các mảng pin mặt trời (PV array) 24.5 MW, với thanh cái DC ở điện áp 1000 VDC. Hình 5.a Sơ đồ một sợi của hệ thống 9 bus cơ sở (không có NMĐQĐ), b. phân bố công suất Hình 6. Sơ đồ một sợi của hệ thống 9 bus đấu nối với NMĐQĐ 243 MWp BẢN TIN HỘI ĐIỆN LỰC MIỀN NAM - THÁNG 10 / 2019 7 Mỗi mảng pin mặt trời đấu nối với BTQĐ 26.2 MVA, điện áp AC định mức 11 kV. Nhiều mảng pin mặt trời đấu nối vào thanh cái 11 kV, với tên gọi thanh cái là Solar Bus. Sau đó điện áp 11 kV được nâng áp lên 230 kV qua MBA và đấu nối vào thanh cái Bus 5 của lưới truyền tải 230 kV của hệ thống (Hình 6)./ (Xin xem tiếp phần 2 trong số kế tiếp) TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Ajit Kumar K, Dr. M. P. Selvan, K. Rajapandiyan, “Grid Stability Analysis for High Penetration Solar Photovoltaics”, GIZ17_098_paper_AJIT_KUMARK.pdf [2]. P. Kundur, “Power System Stability and Control”, 1st Edition, Mcgrawhill Inc, 2006. [3]. P. Kundur et al., “DeJnition and ClassiJcation of Power System Stability”, IEEE/CIGRE Joint Task Force on Stability Terms and DePnitions, IEEE Transactions on Power Systems, Vol. 19, No. 3, pp. 1387-1401, Aug. 2004. [4]. Benjamin Kroposki, Brian Johnson, Yingchen Zhang, Vahan Gevorgian, Paul Denholm, Bri-Mathias Hodge, And Bryan Hannegan, “Achieving A 100% Renewable Grid: Operating Electric Power Systems with Extremely High Levels of Variable Renewable Energy”, IEEE Power & Energy Magazine March/ April 2017 1540-7977/17©2017. [5]. Elyas Rakhshani, Kumars Rouzbehi, Adolfo J. Sánchez, Ana Cabrera Tobar, Edris Pouresmaeil, “Integration of Large Scale PV-Based Generation into Power Systems: A Survey”, Energies 2019, 12, 1425; DOI:10.3390/EN12081425, www.mdpi.com/journal/energies [6]. Tran Quoc Tuan, “Integration of Solar PV Systems into Grid: Impact Assessment and Solutions”, CEA- INES and INSTN (Paris Saclay University), Hội Nghị Khoa Học& Công Nghệ Điện Lực Toàn Quốc 2017, Nhà Xuất Bản Bách Khoa Hà Nội Hà Nội- 2017, pp 30-54. [7]. Nguyễn Mậu Cương, Nguyễn Đức Ninh. “Tổng Quan các Quy Định và các Nghiên Cứu Nối Lưới Đối với Năng Lượng Tái Tạo và Tính Toán cho Nhà Máy Điện Mặt Trời tại Nam Phi”, Hội Nghị Khoa Học& Công Nghệ Điện Lực Toàn Quốc 2017, Nhà Xuất Bản Bách Khoa Hà Nội Hà Nội- 2017, pp 82-100. [8]. U. Andreas, T.S. Borsche, G. Andersson, “Impact of Low Rotational Inertia on Power System Stability and Operation”, IFAC World Congress 2014, Capetown, South Africa, 2014. [9]. Y. T. Tan, D. S. Kirschen, “Impact on 0e Power System of A Large Penetration of Photovoltaic Generation”, 2007 IEEE Power Engineering Society General Meeting, Tampa, Fl, 2007, pp. 1-8. [10]. S. EQekharnejad, V. Vittal, G. T. Heydt, B. Keel ,J. Loehr, “Impact Of Increased Penetration Of Photovoltaic Generation On Power Systems”, IEEE Transactions on Power Systems, Vol. 28, No. 2, pp. 893-901, May 2013. [11]. W. Yang, X. Zhou, F. Xue, “Impacts Of Large Scale and High Voltage Level Photovoltaic Penetration on 0e Security and Stability of Power System”, 2010 Asia-PaciPc Power and Energy Engineering Conference, Chengdu, 2010, pp. 1-5. [12]. Dave Gahl, Brandon Smithwood, Rick UmoR, “Hosting Capacity: Using Increased Transparency of Grid Constraints to Accelerate Interconnection Processes”, September 2017, Fe Fird in SEIA’s Improving Opportunities for Solar Frough Grid Modernization Whitepaper Series, https://www. seia.org/sites/default/Ples/2017-09/SEIA-GridMod-Series-3_2017-Sep-FINAL.pdf
File đính kèm:
- tac_dong_cua_muc_xam_nhap_cao_cua_cac_nha_may_dien_mat_troi.pdf