Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007-2017)

Từ phân tích những thông tin định tính ba thế hệ của năm hộ gia đình có nguồn

gốc nông thôn chuyển thành thị dân ở thời điểm hậu đô thị hóa tại phường Tân

Tạo A, quận Bình Tân, TPHCM, bài viết tìm hiểu về sự thích ứng ngành nghề và

định hướng giáo dục trong môi trường đô thị của các thành viên và quá trình

thay đổi nhận thức của các hộ đến việc tiếp cận những nghề nghiệp mới. Qua

đó cho thấy chuyển dịch kinh tế và điều kiện sống đã thay đổi nhận thức của thế

hệ thứ nhất về nghề nghiệp, về giáo dục và từ đó có đầu tư nhất định để các thế

hệ thứ hai và ba có những nền tảng phát triển bền vững trong tương lai

Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007-2017) trang 1

Trang 1

Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007-2017) trang 2

Trang 2

Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007-2017) trang 3

Trang 3

Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007-2017) trang 4

Trang 4

Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007-2017) trang 5

Trang 5

Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007-2017) trang 6

Trang 6

Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007-2017) trang 7

Trang 7

Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007-2017) trang 8

Trang 8

Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007-2017) trang 9

Trang 9

Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007-2017) trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang xuanhieu 2000
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007-2017)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007-2017)

Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007-2017)
đón một đứa 1,2 triệu/tháng, 
ngoài ra là ở nhà chăm con cái đi học, 
chồng đã chết nên những người con 
của mình có nhận thức về việc học 
hành” (PV chị L, 41 tuổi, hộ 1). Ngoài 
học ở trường, chị còn cho học thêm 
rất nhiều, và quyết tâm cho con học 
đại học. 
Thế hệ 2 xem bản thân mình chỉ làm 
những công việc đủ sống, nhưng lại 
rất quan tâm đến con cái và việc học 
của con cái. Thế hệ 3 họ sinh ra, lớn 
lên trong điều kiện tốt hơn so với thế 
hệ 1 và thế hệ 2. Ở thế hệ 3, chúng tôi 
nhận thấy nhận thức của cha mẹ về 
con cái đã có sự thay đổi khá rõ theo 
hướng tích cực, đặc biệt là đầu tư vào 
giáo dục. “Con có dự định học lên đại 
học, không có ý định nghỉ học để đi 
làm công nhân. Những bạn ở đây 
cũng có suy nghĩ giống con. Con đang 
học thêm toán, lý, hóa, con không gặp 
khó khăn trong việc học, con thấy bình 
thường. Con tính thi vào cấp 3 trường 
điểm Mạc Đình Chi ở quận 6. Nếu con 
thi rớt đại học, con sẽ ôn thi lại lần 
nữa, nếu rớt tiếp con sẽ đi học nghề” 
(PV cháu K, 15 tuổi con thứ 2 của chị 
L, 41 tuổi). 
Chắt lọc các loại việc làm của năm hộ 
nghiên cứu trường hợp này chúng tôi 
nhận thấy sự thích ứng của cha mẹ 
thay đổi khá nhanh, hướng đến việc 
đầu tư giáo dục cho con cái. Thế hệ 2 
còn trong độ tuổi lao động, họ làm 
những công việc có trình độ tay nghề 
đến việc làm không đòi hỏi tay nghề; 
thế hệ 3 là những người nhỏ tuổi đang 
đi học từ cấp thấp nhất cho đến cao 
nhất. Người trẻ thuộc thế hệ 3 có 
những nhận thức về việc học của họ 
khá thú vị. Phỏng vấn một số em cho 
thấy họ có tính độc lập trong việc học 
và tiếp cận nghề nghiệp: họ cũng 
được cha mẹ đầu tư cho việc học, 
trong đó có những em giao tiếp bằng 
tiếng Anh khá tốt. Quá trình đầu tư 
ĐÀO QUANG BÌNH – SỰ THÍCH ỨNG NGHỀ NGHIỆP CỦA CƯ DÂN 
49 
học hành cho con cái một cách bài 
bản và có sự quan tâm, theo sát của 
cha mẹ. Ngoài chuyện học chính khóa, 
họ còn đầu tư cho con học thêm, qua 
thông tin phỏng vấn chúng tôi thấy 
chiếm một khoản chi phí khá lớn trong 
thu nhập. Qua khảo sát, nguồn thu 
kinh tế gia đình hiện nay của năm hộ 
khảo sát khá đa dạng: từ lương, buôn 
bán, nhưng các gia đình đều có nguồn 
thu dựa vào cho thuê nhà trọ. Đối với 
hộ số 5, con cái có những lựa chọn 
khác nhau trong định hướng công việc, 
theo khả năng của mình. Như người 
con thứ nhất không học nổi, gia đình 
vẫn động viên cho học hết 12 rồi sau 
đó mới tính tiếp. Giải pháp đưa ra cho 
người con thứ nhất là làm những công 
việc phù hợp với năng lực và làm sao 
đảm bảo cuộc sống. 
Chị V, 43 tuổi, hộ 5 nói về các con mình: 
Về người con thứ nhất: “Con đi học có 
thiếu nửa điểm sao con không ráng 
học? điểm môn Toán thiếu nửa điểm 
con ráng đi học thêm đi, nó nói giờ con 
cũng hết lực rồi, nó không tốt nghiệp 
12. Như vậy, nó quyết định đi làm 
công nhân, phù hợp với khả năng của 
nó. Nếu nó đi học tiếp mình cũng ráng 
đầu tư cho nó học đại học, ở nhà cũng 
muốn nó vào học đại học”. 
Về người con thứ hai: “Sau khi học 
đến lớp 10 T. xin nghỉ, không chịu đi 
học, dù có nói gì đi nữa nó cũng không 
nghe. Nhưng nghỉ đi làm được một 
năm thì bắt đầu xin học lại. Mình có nói 
con ráng học đi, mẹ ráng đóng tiền cho 
con học. Hiện nay vừa làm vừa học, 
cháu học luật. Giờ cũng tôi ráng làm 
cho con tiền học, nay thì học năm thứ 
2 rồi”. 
Và người con thứ 3 của chị là N cho 
biết: “Con học xong lớp 12 năm 2018, 
nghỉ ở nhà 1 năm, do con thích đi học 
nghề, nhưng nhà kinh phí không đủ 
nên con tính xét tuyển vào sư phạm, 
ngành giáo viên tiểu học”. 
Qua câu chuyện cho thấy đã có sự 
thay đổi về nhận thức trong việc đầu 
tư giáo dục cho thế hệ 3 để có nghề 
nghiệp chắc chắn hơn, hiểu việc nâng 
cao học thức sẽ đem lại một cuộc 
sống tốt hơn. 
Như vậy, sự thích ứng nghề nghiệp 
của cư dân có một quá trình biến đổi 
và sự hội nhập vào môi trường mới. 
Những thích ứng trên tùy theo hoàn 
cảnh gia đình, nhưng nhìn chung thế 
hệ 2 và 3 đã có những hình thức thích 
ứng phù hợp với năng lực cá nhân. 
Những thế hệ 2 và 3 nằm trong độ 
tuổi 20-30 đã có những thích ứng 
đúng với khả năng của mình, họ có 
thể tham gia vào thị trường lao động 
đòi hỏi có tay nghề khá cao. 
Một điều đáng chú ý khác trong việc 
định hướng nghề nghiệp cho con cái 
của cha mẹ là họ không muốn con 
làm công nhân dù khu công nghiệp 
gần nơi sinh sống. Qua nghiên cứu 
sâu 5 trường hợp, chúng tôi nhận thấy 
định hướng của cha mẹ phần lớn 
hướng con cái đến những công việc 
có tay nghề, họ không quan tâm đến 
việc làm công nhân. 
3.2. Quá trình thay đổi nhận thức của 
ngƣời dân đến việc tiếp cận những 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 11 (267) 2020 
50 
ngành nghề mới của các thành viên 
trong gia đình 
Trong nghiên cứu của chúng tôi về 
giai đoạn 1995-2005 (Đào Quang 
Bình, 2007), khảo sát việc đầu tư cho 
con cái học nghề sau khi không còn 
làm nông nghiệp của 200 hộ cho thấy, 
số hộ đầu tư cho con cái học nghề rất 
thấp. Trong những hộ có sử dụng số 
tiền vay mượn từ người thân và ngân 
hàng, tỷ lệ hộ có dùng tiền vay để đầu 
tư cho con em vào học nghề 
chỉ có 35,6% so với vay mượn 
để làm ăn. 
Như vậy, đầu tư cho đào tạo 
nghề của cộng đồng tại tại giai 
đoạn đó vẫn chưa được quan 
tâm đúng mức so với yêu cầu 
của sự phát triển xã hội. Việc 
học nghề của thanh niên tại trung tâm 
dạy nghề cũng không cao. Một lãnh 
đạo trung tâm dạy nghề và giới thiệu 
việc làm cho biết: “Thực tế số người 
vào học nghề tại trung tâm không cao. 
Nếu có, những học viên này chỉ học 
qua loa, mục đích là chỉ lấy chứng chỉ 
chứ không lấy kiến thức”. Thường số 
người này có biết chút ít về một nghề 
nào đó, nhưng các nhà tuyển dụng lại 
yêu cầu phải có chứng chỉ nghề buộc 
Bảng 4: Trình độ học vấn của các thế hệ trong 5 hộ 
Hộ Thế hệ 1 Thế hệ 2 Thế hệ 3 
1 
Cha: Lớp 3 
Mẹ: Lớp 5 
Con 1: Lớp 7* 
Cháu 1: Đại học năm 2 
Cháu 2: Lớp 10 
Con 2: Lớp 12 
Cháu 1: Lớp 11 
Cháu 2: Lớp 9 
Cháu 3: Lớp 4 
Con 3: Trung cấp cảnh sát giao thông Cháu 1: Lớp 4 
2 
 Hộ tách từ hộ số 1 Cha: Lớp 5* 
Mẹ: Lớp 7 
Con 1: Đại học năm 2 
Con 2: 10 
3 
Cha: Lớp 12 (Tú tài 2) 
Mẹ: Lớp 9 
Con 1: Lớp 12 Cháu 1: Lớp 9 
Con 2: Đại học 
Cháu 2: Lớp 3 
Cháu 3: Lớp 1 
Con 3: Cao đẳng Cháu 4: Lớp mẫu giáo 
4 
 Cha: Lớp 3 
Mẹ: Lớp 4 
Con 1: Trung cấp y 
Con 2: 5 (Bệnh) 
5 
 Cha: Lớp 5 
Mẹ: Lớp 3 
Con 1: Lớp 10 
Con 2: Đại học năm 2 
Con 3: Lớp 12 
Nguồn: Tác giả khảo sát năm 2020. 
Bảng 3: Tỷ lệ mục đích sử dụng tiền vay - mượn 
Mục đích vay - mượn % 
Sử dụng tiền mượn cá nhân cho làm ăn 11,9 
Sử dụng tiền mượn cá nhân cho học nghề 3,4 
Sử dụng tiền vay ngân hàng cho làm ăn 72,9 
Sử dụng tiền vay ngân hàng cho học nghề 35,6 
Nguồn: Đào Quang Bình, 2007. 
ĐÀO QUANG BÌNH – SỰ THÍCH ỨNG NGHỀ NGHIỆP CỦA CƯ DÂN 
51 
họ mới vào đây mà thôi. Gần 75% các 
hộ gia đình được khảo sát cho biết: 
thanh niên thích đi làm sớm kiếm tiền 
hơn là học cao (Đào Quang Bình, 
2007). 
Sau 10 năm, chúng tôi quay lại khảo 
sát trường hợp là năm hộ gia đình đã 
cho thấy có sự thay đổi rõ ràng về 
nhận thức thích ứng nghề nghiệp. 
Những người ở độ tuổi từ 40 đến 50 
có thay đổi rõ về việc đầu tư cho con 
cái học để có nghề nghiệp, tương lai. 
Cách nhìn mới của gia đình: “Trẻ ít 
học, không học thì sẽ không hiểu biết, 
chẳng khác nào lớn xác, có sức khỏe 
nhưng không có trí tuệ cũng giống 
như đi trong bóng đêm” (PV cô T, 65 
tuổi). Bảng 4 cho thấy trình độ học 
vấn trong các thế hệ của năm hộ như 
sau: 
Về vị trí việc làm trong 10 năm qua, 
người trẻ thế hệ 3 nằm trong độ tuổi 
trên 20 trong năm hộ gia đình có việc 
làm khá tốt. Hộ số 2, con gái đang 
theo học đại học năm thứ hai, “ con 
tôi đòi nghỉ học để đi du học ở Úc, 
kinh tế gia đình không kham nổi” (PV 
chị Ph hộ số 2). Việc nâng cao năng 
lực của chính con cái trong gia đình 
của hộ này cho thấy rõ xu hướng cha 
mẹ muốn con cái học đến nơi đến 
chốn. Tuy nhiên, trường hợp này do 
kinh tế gia đình chỉ buôn bán nhỏ, cho 
thuê nhà trọ nên chỉ đủ sống. Thu 
nhập của họ chỉ đủ lo cho con cái học 
trong nước. Những người thuộc thế 
hệ 3 nằm trong nhóm tuổi trên 30 cho 
thấy họ cũng khá thành công trong 
nghề nghiệp, đó là học những ngành 
nghề có tay nghề cao như điều dưỡng, 
giáo viên. Theo ghi nhận tại cuộc 
phỏng vấn: “Em nghĩ là em chọn 
ngành này là để trị bệnh cho em em, 
nên đăng ký đi thi và học, giờ em làm 
ở điều dưỡng ở bệnh viện 115, trước 
đây em làm ở bệnh viên Hùng Vương 
mới chuyển qua. Theo chuẩn hóa của 
bệnh viện em đang học nâng cao lên 
nữa, giờ em đang học lên cao đẳng” 
(PV em L, 31 tuổi, hộ 4). Hộ 3 có con 
gái thuộc thế hệ 2 học đại học ngành 
kế toán. Chủ hộ cho biết chồng của 
con gái là bác sĩ, hiện họ đã có một 
con, cùng ở chung với gia đình. Riêng 
người con gái thứ ba là giáo viên và 
hiện đã có chồng ở gần khu công 
nghiệp Tân Tạo. 
Kết quả khảo sát cho thấy thế hệ 2 và 
3 có sự phát triển và thành công dù chỉ 
sau hơn 10 năm. Đặc biệt đã có sự 
thay đổi nhận thức trong tiếp cận nghề 
nghiệp của người dân qua đầu tư cho 
con cái. “Chị phải thay đổi số phận 
con cái nếu như không muốn con 
mình sau này khổ”; “Giờ tốn cỡ nào 
cũng phải cho nó học hết 12 và đi học 
nghề hoặc đại học. Đời mình đã khổ, 
học đã thấp, chỉ làm được công nhân 
là hết rồi, nhưng làm công nhân cũng 
cực, như tăng ca lương, không cao. Vì 
vậy, tụi nhỏ phải học, không học sau 
này sẽ không biết làm gì, hồi xưa 
mình không học còn làm ruộng với ba 
mẹ, giờ hết đất rồi không học đâu có 
gì làm” (PV chị P, 43 tuổi, hộ 5). 
Sự nhận thức nghề nghiệp của chính 
thế hệ 3 trong môi trường mới là phải 
học dù gia đình đang có một nền tảng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 11 (267) 2020 
52 
thu nhập tương đối ổn định dựa trên 
dịch vụ cho thuê nhà trọ. Sự không ỷ 
lại này thể hiện rõ trong suy nghĩ của 
một học sinh lớp 9 chuẩn bị lên lớp 10 
như sau: “Con có dự định học lên đại 
học, không có ý định nghỉ học để đi 
làm công nhân. Những bạn ở đây, 
đồng lứa với con đều có suy nghĩ 
giống con” (PV em K, nam, 15 tuổi, hộ 
số 1). 
Qua những cá nhân nằm trong tuổi 
lao động (từ 20 đến 30), cho thấy tâm 
thế từng hộ gia đình trong việc đầu tư 
giáo dục cho con cái học hành. Với 
thế hệ thứ 3, con cái ngày càng được 
quan tâm hơn và không có sự phân 
biệt giữa nam và nữ. Điều quan trọng 
là quá trình thích ứng cũng như kế 
hoạch đầu tư dài hạn cho con cái 
trong gia đình chúng tôi tiếp cận đều 
có những nhận thức giống nhau. Phần 
lớn các gia đình này sử dụng mọi 
nguồn lực có được đầu tư cho con cái 
và mong muốn của họ là con cái có 
công ăn việc làm như ý thích của 
chính họ. Trong giai đoạn mới này, 
những người ở độ tuổi 20 - 30 có 
nhận thức nghề nghiệp rất rõ, họ chọn 
những ngành nghề dễ có việc làm 
như y khoa, kế toán, giáo viên và kinh 
tế. Đối với thế hệ cha mẹ trước đó họ 
không chọn nghề nghiệp cho con cái. 
Họ cho rằng, con cái thích nghề gì, 
chọn cái gì là quyền quyết định của 
chính bản thân con cái. Tính tự lập 
của thế hệ thứ 3 được động viên từ 
thế hệ cha mẹ, ông bà cho việc cố 
gắng đạt được một trình độ học vấn 
nhất định. 
Như vậy, nhận thức của thế hệ thứ 2 
và 3 nằm trong độ tuổi 20 - 30 trong 
năm hộ được nghiên cứu đã thấy rất 
rõ sự thay đổi nhận thức của hộ cũng 
như các cá nhân trong bối cảnh mới. 
Đồng thời, chúng tôi nhận thấy tâm lý 
người dân ở đây không có sự phân 
biệt giới tính hay quan niệm thiên lệch 
về việc đầu tư giáo dục cho nam hay 
nữ. Chị V, 43 tuổi, hộ 5 cho biết: “Các 
con ai học được có cố gắng sẽ cho 
học đến nơi đến chốn, chứ gái hay trai 
đều như nhau, cũng con mình hết”. 
Đối với các gia đình ở nông thôn, đầu 
tư cho giáo dục của con phụ thuộc 
vào nhiều yếu tố, trong đó có sức học 
của con (Hà Thị Minh Khương, 2009). 
Tại Tân Tạo A, trong năm hộ được 
khảo sát, chúng tôi nhận thấy việc đầu 
tư cho con cái trong mỗi giai đoạn của 
các gia đình có khác nhau nhưng có 
điểm giống nhau: (1) căn cứ theo sức 
học cha mẹ có sự quan tâm đầu tư và 
mong muốn con cái học lên cao, có 
nghề nghiệp, (2) căn cứ vào điều kiện 
kinh tế cha mẹ đầu tư giáo dục cho 
con cái để có nghề trong tương lai. 
4. KẾT LUẬN 
Việc nâng cao nội lực cá nhân để 
thích ứng với quá trình đô thị hóa thể 
hiện rõ qua những thay đổi trong cuộc 
sống, việc làm, trong giáo dục và thay 
đổi trong nhận thức của các hộ gia 
đình được nghiên cứu. Những thay 
đổi này đã tạo nên những nét riêng 
biệt ở mỗi hộ nhưng khá giống nhau 
trong nhận thức về giáo dục và đào 
tạo thế hệ con cháu. Các thế hệ sau 
nhận thức rõ nét về đầu tư vào việc 
ĐÀO QUANG BÌNH – SỰ THÍCH ỨNG NGHỀ NGHIỆP CỦA CƯ DÂN 
53 
học hành cho con cái. Như vậy, sự 
thích ứng nghề nghiệp của người dân 
phường Tân Tạo A có nhiều chuyển 
biến tích cực. Qua phân tích nội dung 
dựa trên thông tin phỏng vấn sâu 
chúng tôi nhận thấy sự thay đổi nhận 
thức của người dân về việc tạo dựng 
cho con cái có một tương lai tốt hơn là 
sự đầu tư sâu vào giáo dục cho thế hệ 
trẻ. 
Duy trì các hoạt động kinh tế cho thuê 
nhà trọ là nguồn thu nhập chính yếu 
của hộ. Ngoài nguồn thu nhập này, 
các thành viên trong gia đình còn có 
nguồn thu từ những công việc đòi hỏi 
có trình độ và tay nghề khá ổn định. 
Điều này yêu cầu họ nhận thức tốt 
hơn trong việc đầu tư giáo dục cho 
các thế hệ kế tiếp. 
Nghiên cứu này cũng cho thấy, để 
phát triển kinh tế - xã hội nhà nước 
cần xây dựng các chương trình hỗ trợ 
về đào tạo nghề cho cư dân bị ảnh 
hưởng bởi sự phát triển đô thị. Hỗ trợ 
này cũng là động lực giúp cho người 
dân chuyển đổi nghề được ổn định 
hơn và bền vững hơn. 
Nhờ nguồn lực này, người dân đã bền 
bỉ thay đổi cuộc sống của mình và họ 
vun đắp cho thế hệ sau được tốt hơn 
thông qua đầu tư giáo dục và phát 
triển nghề nghiệp cho con cháu. Sự 
thích ứng nghề nghiệp trong bối cảnh 
đô thị là điều tất yếu, nhưng quá trình 
này trở nên bền vững hơn khi được 
đầu tư nhiều hơn vào giáo dục cho 
các thế hệ tương lai.  
CHÚ THÍCH 
(1)
 Tác giả khảo sát 200 hộ dân trong nghiên cứu “Sự chuyển đổi việc làm của cư dân ven đô 
dưới tác động của quá trình đô thị hóa - trường hợp phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, 
TPHCM”. Luận văn thạc sĩ, năm 2007. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn 
TPHCM. 
(2)
 Thuộc đề tài “Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên 
cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, TPHCM giai đoạn 2007-2017”. 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Đào Quang Bình. 2007. Sự chuyển đổi việc làm của cư dân ven đô trong quá trình đô 
thị hóa tại TPHCM, trường hợp phường Tân Tạo A, quận Bình Tân. Luận văn cao học, 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM. 
2. Hà Thị Minh Khương. 2009. “Đầu tư vào giáo dục cho con cái qua nghiên cứu trường 
hợp xã Trịnh Xá, Bình Lục, Hà Nam”. Tạp chí Xã hội học, số 4, tr. 5. 
3. Ủy ban Nhân dân phường Tân Tạo A. 2019. Báo cáo tổng kết kinh tế - xã hội. Kết 
quả 15 năm xây dựng và phát triển phường Tân Tạo A (2013-2018). 

File đính kèm:

  • pdfsu_thich_ung_nghe_nghiep_cua_cu_dan_trong_moi_truong_do_thi.pdf