Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007-2017)
Từ phân tích những thông tin định tính ba thế hệ của năm hộ gia đình có nguồn
gốc nông thôn chuyển thành thị dân ở thời điểm hậu đô thị hóa tại phường Tân
Tạo A, quận Bình Tân, TPHCM, bài viết tìm hiểu về sự thích ứng ngành nghề và
định hướng giáo dục trong môi trường đô thị của các thành viên và quá trình
thay đổi nhận thức của các hộ đến việc tiếp cận những nghề nghiệp mới. Qua
đó cho thấy chuyển dịch kinh tế và điều kiện sống đã thay đổi nhận thức của thế
hệ thứ nhất về nghề nghiệp, về giáo dục và từ đó có đầu tư nhất định để các thế
hệ thứ hai và ba có những nền tảng phát triển bền vững trong tương lai
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007-2017)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007-2017)
đón một đứa 1,2 triệu/tháng, ngoài ra là ở nhà chăm con cái đi học, chồng đã chết nên những người con của mình có nhận thức về việc học hành” (PV chị L, 41 tuổi, hộ 1). Ngoài học ở trường, chị còn cho học thêm rất nhiều, và quyết tâm cho con học đại học. Thế hệ 2 xem bản thân mình chỉ làm những công việc đủ sống, nhưng lại rất quan tâm đến con cái và việc học của con cái. Thế hệ 3 họ sinh ra, lớn lên trong điều kiện tốt hơn so với thế hệ 1 và thế hệ 2. Ở thế hệ 3, chúng tôi nhận thấy nhận thức của cha mẹ về con cái đã có sự thay đổi khá rõ theo hướng tích cực, đặc biệt là đầu tư vào giáo dục. “Con có dự định học lên đại học, không có ý định nghỉ học để đi làm công nhân. Những bạn ở đây cũng có suy nghĩ giống con. Con đang học thêm toán, lý, hóa, con không gặp khó khăn trong việc học, con thấy bình thường. Con tính thi vào cấp 3 trường điểm Mạc Đình Chi ở quận 6. Nếu con thi rớt đại học, con sẽ ôn thi lại lần nữa, nếu rớt tiếp con sẽ đi học nghề” (PV cháu K, 15 tuổi con thứ 2 của chị L, 41 tuổi). Chắt lọc các loại việc làm của năm hộ nghiên cứu trường hợp này chúng tôi nhận thấy sự thích ứng của cha mẹ thay đổi khá nhanh, hướng đến việc đầu tư giáo dục cho con cái. Thế hệ 2 còn trong độ tuổi lao động, họ làm những công việc có trình độ tay nghề đến việc làm không đòi hỏi tay nghề; thế hệ 3 là những người nhỏ tuổi đang đi học từ cấp thấp nhất cho đến cao nhất. Người trẻ thuộc thế hệ 3 có những nhận thức về việc học của họ khá thú vị. Phỏng vấn một số em cho thấy họ có tính độc lập trong việc học và tiếp cận nghề nghiệp: họ cũng được cha mẹ đầu tư cho việc học, trong đó có những em giao tiếp bằng tiếng Anh khá tốt. Quá trình đầu tư ĐÀO QUANG BÌNH – SỰ THÍCH ỨNG NGHỀ NGHIỆP CỦA CƯ DÂN 49 học hành cho con cái một cách bài bản và có sự quan tâm, theo sát của cha mẹ. Ngoài chuyện học chính khóa, họ còn đầu tư cho con học thêm, qua thông tin phỏng vấn chúng tôi thấy chiếm một khoản chi phí khá lớn trong thu nhập. Qua khảo sát, nguồn thu kinh tế gia đình hiện nay của năm hộ khảo sát khá đa dạng: từ lương, buôn bán, nhưng các gia đình đều có nguồn thu dựa vào cho thuê nhà trọ. Đối với hộ số 5, con cái có những lựa chọn khác nhau trong định hướng công việc, theo khả năng của mình. Như người con thứ nhất không học nổi, gia đình vẫn động viên cho học hết 12 rồi sau đó mới tính tiếp. Giải pháp đưa ra cho người con thứ nhất là làm những công việc phù hợp với năng lực và làm sao đảm bảo cuộc sống. Chị V, 43 tuổi, hộ 5 nói về các con mình: Về người con thứ nhất: “Con đi học có thiếu nửa điểm sao con không ráng học? điểm môn Toán thiếu nửa điểm con ráng đi học thêm đi, nó nói giờ con cũng hết lực rồi, nó không tốt nghiệp 12. Như vậy, nó quyết định đi làm công nhân, phù hợp với khả năng của nó. Nếu nó đi học tiếp mình cũng ráng đầu tư cho nó học đại học, ở nhà cũng muốn nó vào học đại học”. Về người con thứ hai: “Sau khi học đến lớp 10 T. xin nghỉ, không chịu đi học, dù có nói gì đi nữa nó cũng không nghe. Nhưng nghỉ đi làm được một năm thì bắt đầu xin học lại. Mình có nói con ráng học đi, mẹ ráng đóng tiền cho con học. Hiện nay vừa làm vừa học, cháu học luật. Giờ cũng tôi ráng làm cho con tiền học, nay thì học năm thứ 2 rồi”. Và người con thứ 3 của chị là N cho biết: “Con học xong lớp 12 năm 2018, nghỉ ở nhà 1 năm, do con thích đi học nghề, nhưng nhà kinh phí không đủ nên con tính xét tuyển vào sư phạm, ngành giáo viên tiểu học”. Qua câu chuyện cho thấy đã có sự thay đổi về nhận thức trong việc đầu tư giáo dục cho thế hệ 3 để có nghề nghiệp chắc chắn hơn, hiểu việc nâng cao học thức sẽ đem lại một cuộc sống tốt hơn. Như vậy, sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân có một quá trình biến đổi và sự hội nhập vào môi trường mới. Những thích ứng trên tùy theo hoàn cảnh gia đình, nhưng nhìn chung thế hệ 2 và 3 đã có những hình thức thích ứng phù hợp với năng lực cá nhân. Những thế hệ 2 và 3 nằm trong độ tuổi 20-30 đã có những thích ứng đúng với khả năng của mình, họ có thể tham gia vào thị trường lao động đòi hỏi có tay nghề khá cao. Một điều đáng chú ý khác trong việc định hướng nghề nghiệp cho con cái của cha mẹ là họ không muốn con làm công nhân dù khu công nghiệp gần nơi sinh sống. Qua nghiên cứu sâu 5 trường hợp, chúng tôi nhận thấy định hướng của cha mẹ phần lớn hướng con cái đến những công việc có tay nghề, họ không quan tâm đến việc làm công nhân. 3.2. Quá trình thay đổi nhận thức của ngƣời dân đến việc tiếp cận những TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 11 (267) 2020 50 ngành nghề mới của các thành viên trong gia đình Trong nghiên cứu của chúng tôi về giai đoạn 1995-2005 (Đào Quang Bình, 2007), khảo sát việc đầu tư cho con cái học nghề sau khi không còn làm nông nghiệp của 200 hộ cho thấy, số hộ đầu tư cho con cái học nghề rất thấp. Trong những hộ có sử dụng số tiền vay mượn từ người thân và ngân hàng, tỷ lệ hộ có dùng tiền vay để đầu tư cho con em vào học nghề chỉ có 35,6% so với vay mượn để làm ăn. Như vậy, đầu tư cho đào tạo nghề của cộng đồng tại tại giai đoạn đó vẫn chưa được quan tâm đúng mức so với yêu cầu của sự phát triển xã hội. Việc học nghề của thanh niên tại trung tâm dạy nghề cũng không cao. Một lãnh đạo trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm cho biết: “Thực tế số người vào học nghề tại trung tâm không cao. Nếu có, những học viên này chỉ học qua loa, mục đích là chỉ lấy chứng chỉ chứ không lấy kiến thức”. Thường số người này có biết chút ít về một nghề nào đó, nhưng các nhà tuyển dụng lại yêu cầu phải có chứng chỉ nghề buộc Bảng 4: Trình độ học vấn của các thế hệ trong 5 hộ Hộ Thế hệ 1 Thế hệ 2 Thế hệ 3 1 Cha: Lớp 3 Mẹ: Lớp 5 Con 1: Lớp 7* Cháu 1: Đại học năm 2 Cháu 2: Lớp 10 Con 2: Lớp 12 Cháu 1: Lớp 11 Cháu 2: Lớp 9 Cháu 3: Lớp 4 Con 3: Trung cấp cảnh sát giao thông Cháu 1: Lớp 4 2 Hộ tách từ hộ số 1 Cha: Lớp 5* Mẹ: Lớp 7 Con 1: Đại học năm 2 Con 2: 10 3 Cha: Lớp 12 (Tú tài 2) Mẹ: Lớp 9 Con 1: Lớp 12 Cháu 1: Lớp 9 Con 2: Đại học Cháu 2: Lớp 3 Cháu 3: Lớp 1 Con 3: Cao đẳng Cháu 4: Lớp mẫu giáo 4 Cha: Lớp 3 Mẹ: Lớp 4 Con 1: Trung cấp y Con 2: 5 (Bệnh) 5 Cha: Lớp 5 Mẹ: Lớp 3 Con 1: Lớp 10 Con 2: Đại học năm 2 Con 3: Lớp 12 Nguồn: Tác giả khảo sát năm 2020. Bảng 3: Tỷ lệ mục đích sử dụng tiền vay - mượn Mục đích vay - mượn % Sử dụng tiền mượn cá nhân cho làm ăn 11,9 Sử dụng tiền mượn cá nhân cho học nghề 3,4 Sử dụng tiền vay ngân hàng cho làm ăn 72,9 Sử dụng tiền vay ngân hàng cho học nghề 35,6 Nguồn: Đào Quang Bình, 2007. ĐÀO QUANG BÌNH – SỰ THÍCH ỨNG NGHỀ NGHIỆP CỦA CƯ DÂN 51 họ mới vào đây mà thôi. Gần 75% các hộ gia đình được khảo sát cho biết: thanh niên thích đi làm sớm kiếm tiền hơn là học cao (Đào Quang Bình, 2007). Sau 10 năm, chúng tôi quay lại khảo sát trường hợp là năm hộ gia đình đã cho thấy có sự thay đổi rõ ràng về nhận thức thích ứng nghề nghiệp. Những người ở độ tuổi từ 40 đến 50 có thay đổi rõ về việc đầu tư cho con cái học để có nghề nghiệp, tương lai. Cách nhìn mới của gia đình: “Trẻ ít học, không học thì sẽ không hiểu biết, chẳng khác nào lớn xác, có sức khỏe nhưng không có trí tuệ cũng giống như đi trong bóng đêm” (PV cô T, 65 tuổi). Bảng 4 cho thấy trình độ học vấn trong các thế hệ của năm hộ như sau: Về vị trí việc làm trong 10 năm qua, người trẻ thế hệ 3 nằm trong độ tuổi trên 20 trong năm hộ gia đình có việc làm khá tốt. Hộ số 2, con gái đang theo học đại học năm thứ hai, “ con tôi đòi nghỉ học để đi du học ở Úc, kinh tế gia đình không kham nổi” (PV chị Ph hộ số 2). Việc nâng cao năng lực của chính con cái trong gia đình của hộ này cho thấy rõ xu hướng cha mẹ muốn con cái học đến nơi đến chốn. Tuy nhiên, trường hợp này do kinh tế gia đình chỉ buôn bán nhỏ, cho thuê nhà trọ nên chỉ đủ sống. Thu nhập của họ chỉ đủ lo cho con cái học trong nước. Những người thuộc thế hệ 3 nằm trong nhóm tuổi trên 30 cho thấy họ cũng khá thành công trong nghề nghiệp, đó là học những ngành nghề có tay nghề cao như điều dưỡng, giáo viên. Theo ghi nhận tại cuộc phỏng vấn: “Em nghĩ là em chọn ngành này là để trị bệnh cho em em, nên đăng ký đi thi và học, giờ em làm ở điều dưỡng ở bệnh viện 115, trước đây em làm ở bệnh viên Hùng Vương mới chuyển qua. Theo chuẩn hóa của bệnh viện em đang học nâng cao lên nữa, giờ em đang học lên cao đẳng” (PV em L, 31 tuổi, hộ 4). Hộ 3 có con gái thuộc thế hệ 2 học đại học ngành kế toán. Chủ hộ cho biết chồng của con gái là bác sĩ, hiện họ đã có một con, cùng ở chung với gia đình. Riêng người con gái thứ ba là giáo viên và hiện đã có chồng ở gần khu công nghiệp Tân Tạo. Kết quả khảo sát cho thấy thế hệ 2 và 3 có sự phát triển và thành công dù chỉ sau hơn 10 năm. Đặc biệt đã có sự thay đổi nhận thức trong tiếp cận nghề nghiệp của người dân qua đầu tư cho con cái. “Chị phải thay đổi số phận con cái nếu như không muốn con mình sau này khổ”; “Giờ tốn cỡ nào cũng phải cho nó học hết 12 và đi học nghề hoặc đại học. Đời mình đã khổ, học đã thấp, chỉ làm được công nhân là hết rồi, nhưng làm công nhân cũng cực, như tăng ca lương, không cao. Vì vậy, tụi nhỏ phải học, không học sau này sẽ không biết làm gì, hồi xưa mình không học còn làm ruộng với ba mẹ, giờ hết đất rồi không học đâu có gì làm” (PV chị P, 43 tuổi, hộ 5). Sự nhận thức nghề nghiệp của chính thế hệ 3 trong môi trường mới là phải học dù gia đình đang có một nền tảng TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 11 (267) 2020 52 thu nhập tương đối ổn định dựa trên dịch vụ cho thuê nhà trọ. Sự không ỷ lại này thể hiện rõ trong suy nghĩ của một học sinh lớp 9 chuẩn bị lên lớp 10 như sau: “Con có dự định học lên đại học, không có ý định nghỉ học để đi làm công nhân. Những bạn ở đây, đồng lứa với con đều có suy nghĩ giống con” (PV em K, nam, 15 tuổi, hộ số 1). Qua những cá nhân nằm trong tuổi lao động (từ 20 đến 30), cho thấy tâm thế từng hộ gia đình trong việc đầu tư giáo dục cho con cái học hành. Với thế hệ thứ 3, con cái ngày càng được quan tâm hơn và không có sự phân biệt giữa nam và nữ. Điều quan trọng là quá trình thích ứng cũng như kế hoạch đầu tư dài hạn cho con cái trong gia đình chúng tôi tiếp cận đều có những nhận thức giống nhau. Phần lớn các gia đình này sử dụng mọi nguồn lực có được đầu tư cho con cái và mong muốn của họ là con cái có công ăn việc làm như ý thích của chính họ. Trong giai đoạn mới này, những người ở độ tuổi 20 - 30 có nhận thức nghề nghiệp rất rõ, họ chọn những ngành nghề dễ có việc làm như y khoa, kế toán, giáo viên và kinh tế. Đối với thế hệ cha mẹ trước đó họ không chọn nghề nghiệp cho con cái. Họ cho rằng, con cái thích nghề gì, chọn cái gì là quyền quyết định của chính bản thân con cái. Tính tự lập của thế hệ thứ 3 được động viên từ thế hệ cha mẹ, ông bà cho việc cố gắng đạt được một trình độ học vấn nhất định. Như vậy, nhận thức của thế hệ thứ 2 và 3 nằm trong độ tuổi 20 - 30 trong năm hộ được nghiên cứu đã thấy rất rõ sự thay đổi nhận thức của hộ cũng như các cá nhân trong bối cảnh mới. Đồng thời, chúng tôi nhận thấy tâm lý người dân ở đây không có sự phân biệt giới tính hay quan niệm thiên lệch về việc đầu tư giáo dục cho nam hay nữ. Chị V, 43 tuổi, hộ 5 cho biết: “Các con ai học được có cố gắng sẽ cho học đến nơi đến chốn, chứ gái hay trai đều như nhau, cũng con mình hết”. Đối với các gia đình ở nông thôn, đầu tư cho giáo dục của con phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có sức học của con (Hà Thị Minh Khương, 2009). Tại Tân Tạo A, trong năm hộ được khảo sát, chúng tôi nhận thấy việc đầu tư cho con cái trong mỗi giai đoạn của các gia đình có khác nhau nhưng có điểm giống nhau: (1) căn cứ theo sức học cha mẹ có sự quan tâm đầu tư và mong muốn con cái học lên cao, có nghề nghiệp, (2) căn cứ vào điều kiện kinh tế cha mẹ đầu tư giáo dục cho con cái để có nghề trong tương lai. 4. KẾT LUẬN Việc nâng cao nội lực cá nhân để thích ứng với quá trình đô thị hóa thể hiện rõ qua những thay đổi trong cuộc sống, việc làm, trong giáo dục và thay đổi trong nhận thức của các hộ gia đình được nghiên cứu. Những thay đổi này đã tạo nên những nét riêng biệt ở mỗi hộ nhưng khá giống nhau trong nhận thức về giáo dục và đào tạo thế hệ con cháu. Các thế hệ sau nhận thức rõ nét về đầu tư vào việc ĐÀO QUANG BÌNH – SỰ THÍCH ỨNG NGHỀ NGHIỆP CỦA CƯ DÂN 53 học hành cho con cái. Như vậy, sự thích ứng nghề nghiệp của người dân phường Tân Tạo A có nhiều chuyển biến tích cực. Qua phân tích nội dung dựa trên thông tin phỏng vấn sâu chúng tôi nhận thấy sự thay đổi nhận thức của người dân về việc tạo dựng cho con cái có một tương lai tốt hơn là sự đầu tư sâu vào giáo dục cho thế hệ trẻ. Duy trì các hoạt động kinh tế cho thuê nhà trọ là nguồn thu nhập chính yếu của hộ. Ngoài nguồn thu nhập này, các thành viên trong gia đình còn có nguồn thu từ những công việc đòi hỏi có trình độ và tay nghề khá ổn định. Điều này yêu cầu họ nhận thức tốt hơn trong việc đầu tư giáo dục cho các thế hệ kế tiếp. Nghiên cứu này cũng cho thấy, để phát triển kinh tế - xã hội nhà nước cần xây dựng các chương trình hỗ trợ về đào tạo nghề cho cư dân bị ảnh hưởng bởi sự phát triển đô thị. Hỗ trợ này cũng là động lực giúp cho người dân chuyển đổi nghề được ổn định hơn và bền vững hơn. Nhờ nguồn lực này, người dân đã bền bỉ thay đổi cuộc sống của mình và họ vun đắp cho thế hệ sau được tốt hơn thông qua đầu tư giáo dục và phát triển nghề nghiệp cho con cháu. Sự thích ứng nghề nghiệp trong bối cảnh đô thị là điều tất yếu, nhưng quá trình này trở nên bền vững hơn khi được đầu tư nhiều hơn vào giáo dục cho các thế hệ tương lai. CHÚ THÍCH (1) Tác giả khảo sát 200 hộ dân trong nghiên cứu “Sự chuyển đổi việc làm của cư dân ven đô dưới tác động của quá trình đô thị hóa - trường hợp phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, TPHCM”. Luận văn thạc sĩ, năm 2007. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM. (2) Thuộc đề tài “Sự thích ứng nghề nghiệp của cư dân trong môi trường đô thị hóa (Nghiên cứu tại phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, TPHCM giai đoạn 2007-2017”. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Đào Quang Bình. 2007. Sự chuyển đổi việc làm của cư dân ven đô trong quá trình đô thị hóa tại TPHCM, trường hợp phường Tân Tạo A, quận Bình Tân. Luận văn cao học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM. 2. Hà Thị Minh Khương. 2009. “Đầu tư vào giáo dục cho con cái qua nghiên cứu trường hợp xã Trịnh Xá, Bình Lục, Hà Nam”. Tạp chí Xã hội học, số 4, tr. 5. 3. Ủy ban Nhân dân phường Tân Tạo A. 2019. Báo cáo tổng kết kinh tế - xã hội. Kết quả 15 năm xây dựng và phát triển phường Tân Tạo A (2013-2018).
File đính kèm:
- su_thich_ung_nghe_nghiep_cua_cu_dan_trong_moi_truong_do_thi.pdf