Sử dụng hệ thống theo dõi phương tiện giao thông bằng máy quay VCR kỹ thuật số và thiết bị chỉ báo xung đột mới để phân tích xung đột giao thông trong môi trường giao thông mật độ cao
Bài viết này trình bày phân tích xung đột giao thông và giới thiệu thiết bị chỉ báo mới nhằm phát
triển hệ thống an toàn giao thông được hỗ trợ ITS trong môi trường giao thông đông đúc với mật độ
cao. Phân tích xung đột được thực hiện với một Hệ thống Theo dõi Phương tiện giao thông sử dụng
máy quay VCR kỹ thuật số. Trước tiên, sau khi xem xét các công trình phân tích xung đột giao thông
trước đó, điều cơ bản của việc phân tích xung đột giao thông được nêu là sử dụng các khái niệm may
rủi và mạo hiểm để liên kết xung đột giao thông với các tai nạn giao thông. Thứ hai, các thiết bị chỉ
báo va chạm giao thông thông thường như TTC, TTC tương đối, PET, v.v đã được thử nghiệm. Các
đặc điểm của các thiết bị chỉ báo xung đột này đã được phân tích trao đổi. Dựa trên các phân tích này
này, các yêu cầu về thiết bị chỉ báo xung đột mong muốn thực sự phù hợp và có hiệu quả để báo
động cho các lái xe khi tham gia giao thông đông đúc đã được trình bày cho hệ thống an toàn được hỗ
trợ ITS. Thiết bị chỉ báo được biết đến là thiết bị chỉ báo xung đột mới đối với môi trường giao thông
đông đúc đã được đề xuất và chứng minh với một xung đột giao thông thực sự.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng hệ thống theo dõi phương tiện giao thông bằng máy quay VCR kỹ thuật số và thiết bị chỉ báo xung đột mới để phân tích xung đột giao thông trong môi trường giao thông mật độ cao
late): Khoảng cách quy định ở mục 4.4 & 4.5 theo thuật toán O-clit. 4. Các vấn đề của các thiết bị chỉ báo xung đột thông thường và các yêu cầu cho các thiết bị chỉ báo xung đột giao thông mới trong môi trường giao thông đông đúc. 4.1. Khoảng cách mặt cắt ngang, khoảng cách theo chiều dọc, khoảng cách hợp nhất. Wabayashi và Renge (2002) tính toán các chỉ số này trong hầu hết các vụ xung đột va chạm giao thông. Đồ thị hiển thị sơ đồ của ba chỉ số này cho mỗi 0,2 giây, nó cho thấy rằng thậm chí khoảng cách tương đối được qua xử lý cũng có thể tương ứng với các chỉ báo xung đột. 4.2. Các yêu cầu cho các thiết bị chỉ báo xung đột giao thông mới trong môi trường giao thông đông đúc với mật độ cao. Tình huống xung đột quan sát bởi các chuyên gia, nhiều xung đột nguy hiểm nghiêm trọng được tìm thấy, ngay cả nếu nguy hiểm không phải xác định bởi thiết bị chỉ báo TTC, v.v. (a) Tình huống xung đột mà thiết bị chỉ báo TTC có thể tính được. (b) Tình huống xung đột mà thiết bị chỉ báo TTC không thể tính được. (a) (b) Hình 1. Tình huống mà thiết bị chỉ báo mới nên được phát triển. Hai trường hợp được nghiên cứu ở đây. thiết bị chỉ báo TTC được đánh giá có ý nghĩa đáng kể và trường hợp khác thì không. Trường hợp của (a) trong hình 1 là một trường hợp có hai xe chắc chắn va chạm nếu góc độ và tốc độ của chúng không thay đổi. Thết bị chỉ báo TTC có thể chỉ ra rủi ro này. Trường hợp (b) là trường hợp hai chiếc xe đang chạy với khoảng cách gần. Mặc dù trong trường hợp này có thể xảy ra xung đột đặc biệt nghiêm trọng, chỉ báo TTC cũng vẫn cho thông số vô hạn (TTC cho rằng đây là trường hợp an toàn), vì các xe không va chạm nếu chúng không thay đổi tốc độ và góc lái. Tuy nhiên, chỉ báo PET tính toán được một cách rõ ràng đúng như tính năng của nó. Theo Wabayashi and Renge (2002) đối với trường hợp (a), tất cả các chỉ báo TTC, TTC tương đối (a- TTC), & PET đều cho kết quả đáng ghi nhận. Tuy vậy, cũng chỉ ra rằng có nhiều trường hợp mà chỉ báo TTC hoặc các chỉ báo khác đã không hoạt động hiệu quả thậm chí đó là trường hợp các chuyên gia đánh giá là xung đột nguy hiểm nghiêm trọng, khi sử dụng máy quay quan sát 24 giờ. Vì vậy, cho rằng những trường hợp như vậy không thể được tính toán chỉ bằng các chỉ báo đơn giản, mà trong tương lai cần phát triển các thiết bị chỉ báo mới. Sự phân loại mức độ nghiêm trọng xung đột được đề xuất bởi Older & Spicer (1976) và sự phân loại này được các chuyên gia áp dụng sẽ được giới thiệu sau đây. Phân loại xung đột giao thông theo ba trường hợp sau: 1) Xung đột nghiêm trọng: Nhanh chóng giảm tốc độ, thay đổi làn đường, hoặc dừng lại để tránh va chạm dẫn đến tình huống thoát nạn (không có thời gian cho động tác kiểm soát ổn định). 2) Xung đột trung bình: Kiểm soát phanh hoặc thay đổi làn đường để tránh va chạm, nhưng với thời gian dư dật để kiểm soát thao tác. 3) Xung đột nhẹ: Phanh phòng ngừa hoặc thay đổi làn đường (ví dụ, cho chiếc xe chờ để nhập vào đường giao nhau) hoặc dùng phanh phòng ngừa khác hoặc thay đổi làn đường khi có nguy cơ va chạm tối không đáng kể. Tuy nhiên, nhiều trường hợp không được chỉ báo TTC đánh giá là nguy hiểm. Một số trong số đó là các trường hợp được phân loại ở trường hợp (b). Cũng giống như những trường hợp này, có nhiều trường hợp được quan sát thấy là nguy hiểm ngay cả khi họ được đánh giá là an toàn. Ví dụ, có thể tồn tại các trường hợp sau đây: (1) Tốc độ và góc lái của hai chiếc xe đang ở trong một tình huống dẫn đến va chạm. Trường hợp (a). (2) Hai xe đang chạy sát nhau trên cùng một làn đường. Trường hợp (b). (3) Hai xe đang chạy song song với khoảng cách mặt cắt ngang là rất ngắn. (4) Hai trường hợp (2) và (3) với xe đi lách qua. Theo nghiên cứu của Wakabayashi và Renge (2002) trog trường hợp (a) các thiết bị chỉ Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng 88 Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin báo TTC, TTC tương đối (a-TTC), và PET được đánh giá cao. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp không được phân loại vào trường hợp (a) trong phạm vi nhiều xung đột giao thông được nghiên cứu. Bài viết này tập trung vào việc phân tích các xung đột giao thông và nghiên cứu này sẽ hỗ trợ cho nghiên cứu về an toàn giao thông có hỗ trợ ITS. Ngoài ra, theo nghiên cứu an toàn giao thông có hỗ trợ ITS, các chỉ báo xung đột là chỉ báo cơ bản về định lượng. Khi một cá nhân cảm thấy "nguy hiểm" trước một sự kiện (xung đột), sự phát triển của chỉ báo mà có thể định lượng được cảm giác đó, thì đó là vấn đề trong tương lai. Ví dụ, sự kết hợp của nhiều chỉ báo được nêu ở phần trên hoặc phát triển của một chỉ báo kiểu "Nếu là gì đó... thì sau đó" (ví dụ, "Nếu phanh đột ngột, thì việc gì sẽ xảy ra sau đó") ... Có thể được nghiên cứu. Thời gian dự kiến dẫn đến va chạm thường được đo bằng thiết bị chỉ báo TTC và PET, vì có thể dễ dàng xử lý để có tín hiệu cảnh báo. 5. Đề xuất thiết bị chỉ báo PTTC. Dựa trên các phân tích ở trên, chỉ báo PTTC (Thời gian dự kiến xảy ra va chạm) được đề xuất như một thiết bị chỉ báo cho dạng va chạm “Nếu thì”. Đây là một dạng của trường hợp (b) trong hình 1 và thường gặp ở tình trạng giao thông đông đúc và mật độ cao. Tức là, nếu chiếc xe đi đầu tránh đối tượng nguy hiểm hay tốc độ của nó thay đổi bằng cách giảm ga Trong khi mà hai chiếc xe đang chạy cách nhau với khoảng cách rất ngắn trên cùng làn đường đó, chiếc xe đi sau cần phải có thao tác tránh nhanh chóng để thoát khỏi va chạm. Lúc này, chỉ xem xét nghiên cứu trường hợp (2) trong Mục 5,2 Trường hợp (b) thêm vào yếu tố tốc độ thay đổi. Hình 2 biểu thị tình trạng này. Trục ngang biểu thị cho thời gian tính bằng giây và trục thẳng đứng biểu thị cho các vị trí của xe (khoảng cách – cm). Trong hình này cho thấy chiếc xe 1 đang hãm phanh và chiếc xe sau 2 đang va chạm đến chiếc xe 1. Trong hình này, ba mức độ giảm tốc được thiết lập. Phương pháp thiết lập tỷ lệ giảm tốc độ được mô tả sau này. Trong tương lại, các trường hợp mở rộng nghiên cứu, sẽ xem xét ở các trường hợp như trường hợp (3) hoặc trường hợp có thay đổi góc lái. Còn trường hợp này nghiên cứu sự thay đổi tốc độ giữa hai xe đi theo sau nhau và có thể xem đó là trường hợp có cùng một khái niệm như thiết bị chỉ báo PICUD (Uno, Iida et al. 2002). Sự khác biệt giữa PTTC và PICUD là: (1) PICUD là thiết bị chỉ báo một chiều (1D) (trên một đường) trong khi PTTC thiết bị chỉ báo hai chiều (2D); Hình 2. Khái niệm chỉ báo PTTC (Thời gian dự kiến xảy ra va chạm) trong tình huống 2 xe đi tiếp sau nhau; Xe 1 đi đầu đang giảm tốc độ và xe 2 đi ngay sau xe 1; Thiết bị chỉ báo PTTC xác định chỉ báo thời gian dự kiến xảy ra va chạm khi xe 2 không có động tác tránh. (2) Trong khi PICUD là khoảng cách tương đối giữa xe đi trước và xe theo sau khi cả hai xe nhanh chóng dừng lại, thì PTTC chỉ báo thời gian dự kiến xảy ra va chạm. Đây là thời điểm bắt đầu thuận lợi cho việc cung cấp các dấu hiệu cảnh báo. (3) Do đó, theo PTTC, thay đổi vị trí hai chiều và thay đổi góc lái có thể được tính toán. Trị số PTTC là kết quả phép tính của phương trình sau: D = Δv.PTTC + aPTTC / 2 Trong đó, D là khoảng cách tương đối của hai chiếc xe, Δv là sự khác biệt về tốc độ, và a là giảm tốc độ. Trong phần tiếp theo, chỉ báo PTTC được chứng minh với trường hợp thực tế của xung đột nghiêm trọng. 6. Ứng dụng của thiết bị chỉ báo PTTC đối với tình huống hai xe đi rất gần nhau và thảo luận: Trị số PTTC được tính toán dựa trên các thông số thực tế từ máy quay video. Tốc độ giảm tốc được thiết lập sử dụng thông số thực tế. Tỷ lệ giảm tốc độ kỷ lục đã được thiết lập bằng cách sử dụng thực tế. Áp dụng xe với hộp số tự động và hộp số tay, số đo trung bình cho mỗi chiếc xe đã được tính toán, dụng. 1) Tốc độ giảm tốc từ từ: 3,0 giây cho 10 km/h giảm tốc độ (thả chân ga). 2) Tốc độ giảm tốc trung bình: 1,0 giây cho 10 km/ h giảm tốc (phanh hơi). 3) Tốc độ giảm tốc nhanh: 0,5 giây cho 10 km/ h giảm tốc (phanh trung bình, nhưng không phanh đột ngột). Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin 89 Hình 3. Một trường hợp điển hình khi thiết bị chỉ báo TTC của Hayward là không tính trước được, Tuy vậy, trường hợp này được xếp vào dạng xung đột giao thông đặc biệt nghiêm trọng theo tiêu chuẩn của Older and Spicer’s (1976). Các phương tiện trong tình huống thể hiện trong bức ảnh 1 sau đây đã được phân tích. Trường hợp này được đánh giá là một xung đột nghiêm trọng theo cách phân loại chủ quan của Older & Spicer (1976). Hình 3 cho thấy sự biến đổi hình chiếu của hai chiếc xe lên trên một mặt phẳng thực tế sử dụng hệ thống theo dõi giao thông bằng máy quay. Hình 4 cho thấy biểu đồ của trường hợp này với các thiết bị chỉ báo TTC, TTC tương đối (a-TTC), PET cũng như ba dạng trị số PTTC. Hình 5 cho thấy biểu đồ của khoảng cách mặt cắt ngang, khoảng cách theo chiều dọc và khoảng cách hợp nhất (conflate (Euclid) của cả hai xe. Như đã thấy trong hình 4, đây là một trường hợp điển hình mà thiết bị chỉ báo TTC không tính toán giữa các yếu tố thời gian va chạm còn chỉ báo PTTC được tính toán thời gian va chạm. Trong tình huống như vậy, tốc độ và gia tốc của cả hai xe là yếu tố quan trọng chủ yếu. (Tốc độ và gia tốc của hai chiếc xe được thể hiện trong hình 6). Nó cho thấy rằng sự thay đổi của gia tốc hoặc giảm tốc là nhỏ trong giai đoạn đầu và chúng đang giữ tốc độ. Tốc độ ban đầu của chiếc xe đi trước (xe 2) là 15,8 m/ giây (khoảng 57 km/ h) và tốc độ ban đầu của chiếc xe sau (Xe 1) là 13,4 m/ giây (khoảng 48 km/ h). Khi gia tốc của xe đi trước (xe 2) là 2,39 m/giây 2 và gia tốc của chiếc xe sau (Xe 1) là 5,03 m/giây 2 , sự tăng tốc trung bình của chiếc xe sau là lớn hơn của chiếc xe đi trước. Vì khoảng cách phía sau xe đi trước so với xe sau là 2.66m và chiếc xe sau vẫn đang tăng tốc, nên hai xe đang ở trong tình huống nghiêm trọng nguy hiểm sau đây. , ngay cả với tốc độ giảm tốc của máy gia tốc giảm nhẹ, va chạm có thể xảy ra. Trong thời gian từ 1,0 giây đến 1,6 giây, sự tăng tốc của chiếc xe sau (Xe 1) là 3-4 m/giây 2 lớn hơn sự tăng tốc của chiếc xe đi trước (xe 2), và ở 1,8 giây chiếc xe sau (Xe 1) phanh lại. Đây là nguyên nhân trực tiếp mà Older & Spicer (1976) đánh giá là xung đột nghiêm trọng. Chỉ báo TTC là không tính trước được mặc dù xe trong ảnh 1 nằm trong xung đột nguy hiểm nghiêm trọng. Hình 4. Theo dõi xung đột nguy hiểm nghiêm trọng trong ảnh 1 bằng phương tiện theo dõi: Kết quả của biến đổi hình chiếu. Hình 5. So sánh giữa thiết bị chỉ báo TTC thông thường và thiết bị chỉ báo đề xuất PTTC. Lúc này, nếu chiếc xe đi trước (xe 2) có hành động như giảm tốc hoặc phanh, va chạm chắc chắn xảy ra. Ví dụ, nếu chiếc xe đi trước (xe 2) giảm tốc bằng thả chân ga, thời gian để va chạm nhanh chóng được rút ngắn từ 5 giây - 4 giây trong khoảng thời gian này đến 1,0 giây - 1,6 giây (Hình 4). Tại 1,8 giây, thời gian để va chạm (PTTC) tối thiểu là 3 giây. Ngoài ra, nếu Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng 90 Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin chiếc xe đi đầu (xe 2) phanh, thời gian để va chạm (PTTC) là gần 1 giây. Theo tính toán này, tức là 1 giây, là giới hạn ngắn nhất cho phép đối với phản ứng của con người, rõ ràng là hai xe đang ở trong tình trạng nguy hiểm nghiêm trọng. Hình 6. Thay đổi trong khoảng cách cho Hướng mặt cắt ngang (hướng-U) và theo Hướng chiều dọc (hướng-V) của hai xe trong hình ảnh 1 trong xung đột nguy hiểm nghiêm trọng. Hình 7. Thay đổi trong tốc độ (cm/giây) và gia tốc (cm/giây 2 ) của hai xe trong hình ảnh 1 trong xung đột nguy hiểm nghiêm trọng. Bằng cách này, các phân tích xung đột sử dụng trị số PTTC có những đặc tính tiêu biểu mà theo đó thay đổi hành vi giao thông khi mà không thể thực hiện với các chỉ báo TTC thông thường, vv. Như đã đề cập trước đây, điều đó là chỉ ra rằng khi một cá nhân cảm thấy "nguy hiểm" trước một xung đột, thì sự phát triển của các chỉ báo để định lượng cảm giác như vậy là có thể. Như đã thấy trong ví dụ này, nhiều tai nạn xe cộ xảy ra ở nơi có giao thông đông đúc, mật độ cao và dự kiến rằng mức độ an toàn trên những con đường sẽ được cải thiện đáng kể bởi thiết bị chỉ báo PTTC và hệ thống an toàn được hỗ trợ ITS. III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. Những nội dung nghiên cứu ở trên dựa trên rất nhiều thành quả của các nhóm nghiên cứu khác nhau. Vấn đề phân tích xung đột trên cở sở sử dụng các thiết bị ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong thực tế. Để tiến hành nghiên cứu trong điều kiện đặc thù trong điều kiện Việt Nam là rất cần thiết tuy nhiên với dòng giao thông hỗn loạn thì việc phân tích các tình huống xung đột sẽ phức tạp hơn rất nhiều. Cần có những kế hoạch nghiên cứu lâu dài trong từng điều kiện cụ thể TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Akahane, H., 2001. Vehicle Tracking with Multiple Video Cameras. Proceedings of the 37th Infrastructure Planning Symposium, 89-96 (in Japanese). [2]. Allen, B.L., Shin, B.T. and Cooper, D.J., 1978. Analysis of traffic conflicts and collision. Transportation Research Record, 667, 67-74. [3]. Asano, S. and Akahane, H., 2001. Vehicle Tracking with Multiple Video Cameras. Proceedings of infrastructure Planning, No.24, CD-ROM (in Japanese). [4]. Brown, I. D. and Groeger, J. A., 1988. Risk Perception and decision Taking During the Transition between Novice and Experienced Driver Status. Ergonomics, Vol.31, No.4, 585- 597. [5]. Hayward, J.C., 1972. Near-miss determination through use of a scaleof danger. Highway Research Record, 384, 24-34. [6]. Ikegami, Y. Yamanaka, H. and Nakata, H., 2000. A requirement Analysis on Developing Collision Avoidance ITS System of Small Junctions by Traffic Behavior Analysis. Proceedings of infrastructure Planning, No.23(1), 735-738 (in Japanese). [7]. Motoda, Y., 1992. “The State of the Art for the Traffic Conflict Technique”. Traffic Engineering, Vol.27, No.2, 35-46(in Japanese). [8]. Older, S.J. & Spicer, B.R., 1976. Traffic conflicts – development in accident research. Human Factors, 18, 335-350. [9]. Renge, K., 1998. Drivers’ Hazard and Risk Perception, Confidence in Safe Driving, and Choice of Speed. IATSS Research Vol.22, No.2, 103-110. [10]. Uno, N., Iida, Y., Itsubo, S. and Yasuhara, S., 2002. A Microscopic Analysis of Traffic Conflict Caused by Lane-Changing Vehicle at Weaving Section. Proceedings of The 13th Mini- Euro Conference "Handling Uncertainty in Transportation Analysis of Traffic and Transportation Systems", 143-148. [11]. Wakabayashi, H. and Renge, K., 2002. Vehicle Tracking System using Digital VCR And Its Application to Traffic Conflict Analysis for ITS- Assist Traffic Safety. Proceedings of The 9th
File đính kèm:
- su_dung_he_thong_theo_doi_phuong_tien_giao_thong_bang_may_qu.pdf