Sinh kế của người dân bị ảnh hưởng bởi sự cố môi trường biển tại bốn tỉnh miền Trung (Nghiên cứu trường hợp sử dụng tiền bồi thường ở huyện Triệu Phong và Gio Linh tỉnh Quảng Trị)
Sự cố môi trường biển Formosa năm 2016 đã gây thiệt hại nặng nề về kinh tế,
xã hội của bốn tỉnh miền Trung Việt Nam, trong đó có Quảng Trị. Qua kết quả
điều tra, khảo sát thực trạng sinh kế của người dân trước và sau khi xảy ra sự
cố môi trường biển này tại xã Triệu An, huyện Triệu Phong và tại thị trấn Cửa
Việt, huyện Gio Linh tỉnh Quảng Trị, bài viết tìm hiểu các vấn đề: (ii) đời sống
của người dân trước và sau sự cố môi trường biển; (ii) tác động của tiền bồi
thường, hỗ trợ cho sự cố môi trường biển đến đời sống của người dân. Trên cơ
sở đó đưa ra một số nhận xét và kiến nghị giúp nâng cao hiệu quả công tác hỗ
trợ và đền bù trong các sự cố môi trường tương tự
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sinh kế của người dân bị ảnh hưởng bởi sự cố môi trường biển tại bốn tỉnh miền Trung (Nghiên cứu trường hợp sử dụng tiền bồi thường ở huyện Triệu Phong và Gio Linh tỉnh Quảng Trị)
thường cho việc đầu tư để phục hồi sản xuất, 23 hộ sử dụng 1 phần kinh phí cho tái đầu tư sản xuất. Trong số các hộ dùng toàn bộ tiền cho đầu tư sản xuất có 5 hộ đầu tư vào thuyền đánh cá (có 2 hộ đầu tư toàn bộ tiền bồi thường cho thuyền đánh cá) với mức chi phí dao động từ 40 triệu đến 95 triệu đồng; 1 hộ mua nguyên liệu đầu vào cho nuôi trồng thủy sản; 1 hộ mua ngư cụ; 2 hộ mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản; 3 hộ cải tạo diện tích nuôi trồng thủy sản và 1 hộ dùng tiền để thuê lao động. “Một thời gian dài bà con không lao động được thì thu nhập của họ cũng khó khăn, nên nhiều khi họ cũng phải đi vay mượn. Khi có tiền bồi thường về thì họ lại phải trả nợ, chi trả cho những ngày tháng đó nữa... Ví dụ đối với những hộ mà làm ở ven bờ thì họ phải mua lưới này nọ, rồi họ chi trả chi tiêu cho những ngày tháng đó nữa” (TLN lãnh đạo, xã Triệu An). b) Đầu tư vào các hoạt động sinh kế dựa vào đất (hộ có sản xuất nông nghiệp) Bảng 5. Cơ cấu sử dụng nguồn tiền bồi thường theo mục đích sử dụng Nội dung chi Lớn nhất Trung bình Đời sống nhà cửa 100000000.00 13610736.84 Sản xuất nông nghiệp 150000000.00 4894736.84 Nuôi trồng đánh bắt 200000000.00 20673684.21 Kinh doanh 70000000.00 2915789.47 Giáo dục, y tế 65000000.00 2589052.63 Tín dụng 25000000.00 263157.89 Tiêu dùng khác 300000000.00 19493473.68 Khác 225000000.00 9694736.842 Tổng đền bù 350000000.00 74135368.42 Nguồn: Kết quả khảo sát của Đề tài 2019-2020. Hình 2. Hiện trạng sử dụng tiền bồi thường của các hộ gia đình (Đơn vị tính: %) Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả. KHÚC THỊ THANH VÂN – SINH KẾ CỦA NGƯỜI DÂN BỊ ẢNH HƯỞNG 10 Có 11 hộ gia đình dùng tiền bồi thường đầu tư vào sản xuất nông nghiệp nói chung, đây chủ yếu là các hộ gia đình có trồng cây và nuôi con giống trên đất liền. Cụ thể, có 2 hộ mua công cụ sản xuất, 1 hộ cải tạo ruộng đất, 9 hộ mua nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nông nghiệp. Trong đó có 4 hộ dùng toàn bộ số tiền bồi thường chi cho sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, có trường hợp hộ đầu tư nhưng thiếu kinh nghiệm nên không hiệu quả. “Thời gian nuôi heo có nuôi gà nhưng hiệu quả thấp vì giống gà chọi lợi nhuận cao. Gia đình có chăn nuôi gà quy mô 300-500 con. Chi cục thú y hỗ trợ thuốc, khảo sát và giúp đỡ về y tế. Nhưng giống gà khó tính nên thành ra lúc bị dịch là cứ lây lan chết hết. Mình cũng thiếu kinh nghiệm, kỹ thuật. Chuồng trại cũng không đảm bảo và khá xa với y tế (thú y). Nên cũng có khắc phục được nhưng lợi nhuận không cao Giờ chăn nuôi heo cũng thất bại. Không phải là không có kinh nghiệm nhưng dịch bệch nó cứ lăn ra chết” (PVS, nữ, 45 tuổi, thị trấn Cửa Việt). Trong khi đó, mô hình nuôi gà gia tăng với quy mô nhỏ có hiệu quả và ít rủi ro hơn. Thảo luận nhóm người dân cho biết: “Có lớp học chuyển đổi nghề nghiệp nuôi gà và trồng rau với 17 hội viên. Mỗi khu phố 1 lớp. Có nhiều gia đình về nuôi gà, xây chuồng trại có hiệu quả. Chủ yếu là các mô hình thí điểm” (TLN người dân, thị trấn Cửa Việt). c) Đầu tư vào các hoạt động sinh kế khác Trong địa bàn nghiên cứu có xu hướng chuyển lao động xuất khẩu. Đây là hướng chuyển dịch sinh kế được hỗ trợ bởi chính quyền địa phương. Tuy nhiên, phần lớn người dân tự vay tiền cho người trong gia đình đi xuất khẩu lao động. Chính sách hỗ trợ sau đó còn nhiều phức tạp khiến cho nhiều hộ gia đình không làm đủ hồ sơ nhận tiền hỗ trợ. “Bên Sở Lao động, Thương binh và Xã hội chỉ góp phần hỗ trợ tạo việc làm và xuất khẩu lao động. Hỗ trợ việc làm thì chủ yếu tư vấn miễn phí, đối thoại, mời các doanh nghiệp xuất khẩu lao động vào. Ngày 14/7/2016 tổ chức cuộc đối thoại lớn mời 10 doanh nghiệp với 120 lao động: họ cần cái gì, doanh nghiệp vướng mắc cái gì để Sở tháo gỡ. Đối thoại được tổ chức 2 năm một lần, đặc biệt chú trọng đến lao động vùng biển” (PVS, cán bộ Sở Lao động, Thương binh và Xã hội). “Gia đình vay khoảng 200-250 triệu, và còn tiền đi học, đi khám sức khỏe cho con đi Hàn. Con mới đi được 2 tháng, trước kia thì vào Sài Gòn lao động” (PVS, nữ, 44 tuổi, xã Triệu An). Mặc dù lao động xuất khẩu đem lại một khoản thu nhập tốt cho gia đình nhưng có những trường hợp không đủ trang trải cho những nợ nần của hộ gia đình. “Gia đình có con đi xuất khẩu. Năm đầu thì thấp, giờ được 20 triệu. Năm đầu là 10 triệu. Hiện trả hết tiền vay để TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (268) 2020 11 đi thôi. Còn nợ khác của gia đình thì không trả được” (PVS, nam, 45 tuổi, thị trấn Cửa Việt). Qua khảo sát cho thấy tiền bồi thường không cải thiện được nhiều đời sống và sản xuất. Số hộ đánh giá tiền bồi thường có hiệu quả đối với các chuyển đối của gia đình họ chỉ chiếm dưới 10% tổng số hộ khảo sát. Ý nghĩa lớn nhất của tiền bồi thường là giúp đỡ cải thiện dinh dưỡng gia đình (38,9% đồng tình); điều này phù hợp với việc phần lớn số hộ trả lời họ có sử dụng tiền bồi thường cho sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, đối với các hộ có tàu cá, số tiền lượng bồi thường cũng giúp họ một phần chi phí để cải thiện tư liệu sản xuất. Như vậy, khoản tiền bồi thường đã hỗ trợ người dân vượt qua giai đoạn khó khăn nên chỉ giúp cải thiện đời sống của người dân trong một thời gian nhất định. 4. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KHUYẾN NGHỊ 4.1. Nhận xét Từ năm 2017 đến năm 2018 sinh kế của người dân bị ảnh hưởng từ sự cố môi trường biển Formosa có sự thay đổi theo một số hướng sau: (1) Chuyển dịch sinh kế biển sang các loại hình khác mạnh mẽ nhất ở năm 2016 cho đến giữa năm 2017, từ năm 2017 diễn biến xu hướng quay trở lại nguồn sinh kế như trước kia. Ngay sau sự cố môi trường biển, mọi hoạt động sinh kế liên quan đến biển gần như tạm dừng, các tàu đánh bắt xa bờ vẫn hoạt động khai thác nhưng tiêu thụ gặp khó khăn; thậm chí hải sản đã qua chế biến trong các kho đông lạnh, cơ sở nước mắm, lò hấp đều không tiêu thụ được. Ảnh hưởng nặng nề, nghiêm trọng này khiến nhiều người dân có sinh kế liên quan trực tiếp Bảng 6. Nhận định về tác động của việc sử dụng tiền bồi thường của người trả lời Ảnh hưởng của việc sử dụng tiền bồi thường Ý kiến Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật 5 Nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc 3 Cải thiện dinh dưỡng gia đình 37 Cải thiện tình trạng sức khỏe 4 Tạo điều kiện thuận lợi trong chuyển đổi nghề 10 Mở rộng cơ hội tìm việc làm 3 Không cải thiện gì 47 Mở rộng diện tích đất canh tác 1 Mở rộng diện tích đất nuôi trồng thủy sản 7 Mở rộng diện tích đất làm muối 0 Không giúp gì 85 Nâng cao chất lượng tàu, thuyền đánh bắt 13 Nâng cao chất lượng các dụng cụ đánh bắt 9 Tăng số lượng tàu thuyền đánh bắt 1 Tăng số lượng dụng cụ đánh bắt 7 Mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản 5 Không giúp gì 66 Tăng thu nhập từ lãi suất tiền gửi ngân hàng 1 Tăng thu nhập từ lãi suất cho vay tiền 0 Tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ tín dụng 1 Không giúp gì 86 KHÚC THỊ THANH VÂN – SINH KẾ CỦA NGƯỜI DÂN BỊ ẢNH HƯỞNG 12 và gián tiếp đến biển chuyển hướng sang làm nghề khác như phụ hồ, lái xe và di cư sang địa phương khác trong địa bàn tỉnh để lao động. (2) Lao động trong nghề biển có xu hướng chuyển dịch từ đánh bắt xa bờ sang đánh bắt gần bờ và trung bờ do lao động trên tàu xa bờ không thỏa mãn với chính sách bồi thường và còn tâm lý lo sợ vào những sự cố bất thường nên chuyển hướng khai thác ven bờ, với tâm lý nếu còn sự cố cũng nhận được khoản đền bù lớn hơn. (3) Chuyển dịch lao động trẻ sang hướng đi xuất khẩu lao động, xu hướng này diễn ra mạnh mẽ cho đến cuối năm 2019 do những hộ có lao động xuất khẩu có kinh tế khá giả hơn hẳn so với người lao động tại địa phương. Xu hướng lao động chuyển hướng đi lao động ở nước ngoài gia tăng hơn khi xảy ra sự cố môi trường biển. Điều này cũng là một phần của chính sách hỗ trợ chuyển đổi sinh kế của chính quyền. (4) Một số các chuyển dịch khác cũng có xảy ra nhưng không phải là diễn biến điển hình. Các chuyển dịch này theo hướng chuyển sang một số nghề thời vụ khác (phụ hồ, lái xe...) hoặc chuyển đổi sang mô hình xây nhà nuôi yến, nuôi heo. 4.2. Khuyến nghị Trên cơ sở phân tích và đánh giá, chúng tôi đề xuất một số khuyến nghị sau: Một là, các chính sách hỗ trợ chuyển đổi sinh kế và đào tạo nghề khác giúp ích cho người dân bị ảnh hưởng trong việc chuyển đổi sinh kế tạm thời. Các chính sách chi trả bồi thường còn những điểm hạn chế, người dân không hài lòng với mức chi trả cho lao động thuyền xa bờ thấp so với thuyền gần bờ, khó khăn trong thủ tục và giấy tờ nhận tiền hỗ trợ cho lao động đi xuất khẩu lao động... Do đó cần bổ sung, củng cố khung pháp lý trong việc lượng giá các thiệt hại về mặt sinh kế khi xảy ra sự cố môi trường biển. Làm rõ hơn một số vấn đề liên quan đến tác động gián tiếp của tàu xa bờ, phương thức chi trả cho người lao động trên tàu xa bờ. Hai là, các định hướng xây dựng các hoạt động sinh kế cho cộng đồng bị ảnh hưởng trong thời gian tới. Tiền bồi thường trực tiếp tại các hộ gia đình không hỗ trợ nhiều cho việc hộ chuyển đổi sinh kế, trong khi đó các đề án Chuyển đổi sinh kế và việc làm và hỗ trợ xuất khẩu có nhiều giá trị hơn đối với người dân bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, các sự cố môi trường không phải là hiện tượng xảy ra với tần xuất thường xuyên. Hơn nữa việc khai thác biển là một loại hình sinh kế tất yếu của đời sống ven biển. Do đó, các hỗ trợ cho các hoạt động sinh kế của cộng đồng bị ảnh hưởng cũng nên là các chuyển hướng tạm thời trong thời gian có tác động của sự cố. Đi kèm với đó và các hỗ trợ phục hồi sinh kế địa phương sau sự cố môi trường. Thiếu các hỗ trợ phục hồi sinh kế khiến người lao động chuyển dịch sang ngành khác dẫn đến thiếu lao TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (268) 2020 13 động cho nghề đánh bắt hải sản là một thực tế rất đáng lưu tâm tại các địa bàn nghiên cứu. Trong khi đó, khai thác xa bờ không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế, mà còn có ý nghĩa lớn về mặt chính trị trên vùng biển Việt Nam. Ba là, chính sách bồi thường phù hợp với phát triển sinh kế cho các hộ bị ảnh hưởng. Cần tăng giá trị tiền đền bù để ít nhất đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng của hộ gia đình, sau đó mới có thể tính đến việc tạo ra sinh kế mới phù hợp với người dân. Bốn là, thực hiện tốt Chỉ thị số 25/CT- CP ngày 31/8/2016 về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về bảo vệ môi trường. Sự cố môi trường Formosa cho thấy sự yếu kém của các cấp chính quyền trong việc thực hiện Chỉ thị số 25/CT-CP ngày 31/8/2016 về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách bảo vệ môi trường. Nguyên nhân chính là sự yếu kém trong việc quản lý, thanh tra, giám sát việc thực hiện trách nhiệm xử lý chất thải của doanh nghiệp. Do đó, để thực hiện tốt hơn chỉ thị của Chính phủ cần tập trung vào một số hướng như: - Tăng cường hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát về tiêu chuẩn chất lượng nước thải của các doanh nghiệp. Tăng cường cơ chế xử lý theo pháp luật đối với cơ quan quản lý nhà nước khi để xảy ra sự cố mà không phát hiện kịp thời. Tăng hình thức phạt đối với cá nhân/tổ chức có hành vi xả thải gây tác động nghiêm trọng đến môi trường. - Sử dụng cơ chế giám sát của cộng đồng và các tổ chức chính trị xã hội ngoài các cơ quan nhà nước có trách nhiệm chính trong giám sát. Có thể dùng cơ chế thưởng đối với cá nhân, cộng đồng tố cáo các hành vi xả thải gây hại cho môi trường xung quanh. Ứng dụng công nghệ thông tin và cổng thông tin, số điện thoại đường dây nóng tố cáo vi phạm về môi trường. - Khi diễn ra sự cố cần nhanh chóng có sự phối hợp kịp thời giữa các bên, đánh giá tác động môi trường có biện pháp xử lý vi phạm nhanh chóng. CHÚ THÍCH Bài viết là sản phẩm của đề tài “Đánh giá ảnh hưởng sử dụng tiền bồi thường đối với sinh kế của người dân bị ảnh hưởng bởi sự cố môi trường biển tỉnh miền Trung” do tác giả làm chủ nhiệm, Viện Nghiên cứu Phát triển bền vững Vùng, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam chủ trì. (1) Đề tài khảo sát 4 tỉnh, trong đó Hà Tĩnh và Quảng Bình đã khảo sát tháng 9/2019, tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế khảo sát vào tháng 1/2020. (2) Tỷ lệ phụ thuộc (được tính bằng số người ngoài độ tuổi lao động chia cho số người trong độ tuổi lao động: 15-55 tuổi đối với nữ và 15-60 tuổi đối với nam) của năm 2018 là 0,69, cao hơn năm 2016 là 0,64, một phần là do tuổi thọ của người dân ngày càng tăng lên (theo KSMS cơ cấu nhân khẩu theo nhóm tuổi từ 60 trở lên năm 2016 là 13,3%, đến năm 2018 tăng lên 14,8%). Tỷ lệ phụ thuộc của nhóm hộ nghèo nhất cao hơn 1,8 lần so với nhóm hộ KHÚC THỊ THANH VÂN – SINH KẾ CỦA NGƯỜI DÂN BỊ ẢNH HƯỞNG 14 giàu nhất. Tỷ lệ phụ thuộc cũng cao hơn ở các hộ dân cư thuộc khu vực nông thôn so với thành thị (Tổng cục Thống kê, 2019a: 12-13). (3) Nguồn thu nhập lớn nhất = nguồn thu nhập chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu nguồn thu. Không phải là nguồn thu nhập chính số 1, 2, hay 3 mà đã được mã hóa thành biến mới dựa trên các biến trên. (4) Khoản 2 Điều 1, khoản 1 Điều 2 của Quyết định 772/QĐ-TTg ngày 9/5/2016 của Thủ tướng Chỉnh phủ về việc hỗ trợ khẩn cấp cho người dân tại các tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế bị ảnh hưởng do hiện tượng hải sản chết bất thường. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Quảng Trị. 2017. Báo cáo số 85/BC- SNN ngày 12/5/2017. 2. Tổng cục Thống kê. 2019a. Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2018. Hà Nội: Nxb. Thống kê. 3. Tổng cục Thống kê. 2019b. Thông cáo báo chí kết quả tổng Điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2019. https://www.gso.gov.vn/su-kien/2019/12/thong-cao-bao-chi-ket- qua-tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-nam-2019/, truy cậpngày 30/9/2020. 4. Thủ tướng Chính phủ. 2009. Quyết định số 142/2009/QĐ-TTg về cơ chế, chính sách hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh. Hà Nội. 5. Thủ tướng Chính phủ. 2012. Quyết định số 49/2012/QĐ-TTg về việc sửa đổi, bổ sung Điều 3 của Quyết định số 142/2009/QĐ-TTg. Hà Nội. 6. Thủ tướng Chính phủ. 2016. Quyết định số 772/QĐ-TTG về hỗ trợ khẩn cấp cho người dân tại các tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế bị ảnh hưởng do hiện tượng hải sản chết bất thường. Hà Nội. 7. Thủ tướng Chính phủ. 2016. Quyết định số 1138/QĐ-TTG ngày 25/06/2016 về sửa đổi, bổ sung Điều 1 của Quyết định số 772/QĐ-TTg ngày 9/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ khẩn cấp cho người dân tại các tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế bị ảnh hưởng do hiện tượng hải sản chết bất thường. Hà Nội. 8. Thủ tướng Chính phủ. 2016. Chỉ thị về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về bảo vệ môi trường. Hà Nội. 9. Ủy ban nhân dân tỉnh tỉnh Quảng Trị. 2017. Đề án 2285/ĐA-UBND ngày 30/5/2017.
File đính kèm:
- sinh_ke_cua_nguoi_dan_bi_anh_huong_boi_su_co_moi_truong_bien.pdf