Rèn luyện kỹ năng dùng từ
I. VAI TRÒ CỦA TỪ TRONG HOẠT ÐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ
Trong ngôn ngữ thì từ là cái quan trọng nhất [1]. Nói cách khác, trong ngôn ngữ, từ là chất liệu cơ bản, được sử dụng để tạo ra những đơn vị/kết cấu ở bậc cao hơn. Vì thế, không có từ, con người không thể tiến hành giao tiếp được, và như vậy, bản thân ngôn ngữ cũng không tồn tại.
Có thể xem xét vai trò của từ từ hai góc độ.
Về phía người tạo lập văn bản (người nói, người viết), để truyền đạt một nội dung thông báo nào đó, tất nhiên phải tạp ra lời cụ thể, tồn tại dưới một loại hình ngôn bản cụ thể. Trong quá trình tạo câu, tạo đoạn. trong ngôn bản, công việc cơ bản của người nói/viết là lựa chọn và kết hợp từ để tạo thành câu, đoạn v.v.
Về phía người tiếp nhận văn bản (người nghe, người đọc), khi nghe, đọc, trước hết là tiếp xúc với từ (dưới dạng âm thanh hay kí hiệu chữ viết) và hiểu được từ, trên cơ sở đó mới hiểu được câu, đoạn. và cuối cùng là hiểu được nội dung toàn ngôn bản.
Từ có vai trò vô cùng quan trọng như vậy, nên năng lực ngôn ngữ của một cá nhân thể hiện rõ nhất, dễ nhận thấy nhất qua việc dùng từ, xét ở cả hai mặt: đúng và sai, hay và dở.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Rèn luyện kỹ năng dùng từ
kiểu lỗi sai thể hiện qua hiện tượng kết hợp từ tạo thành cụm từ mà nội dung nghĩa giữa các thành tố không tương hợp với nhau, làm cho nghĩa của cả cụm trở nên luẩn quẩn, mơ hồ hay lệch lạc so với ý đồ biểu đạt. Xem xét các ví dụ dưới đây : (a) Vì thế mà văn học thời kì này đã để lại bao tác phẩm quý giá về văn học yêu nước của nhiều tác giả như Nguyễn Ðình Chiểu, Nguyễn Thông ...(BVHS). (b) Chị Sứ đang nằm trong sự thâm độc của bọn giặc, gần kề cái chết, nhưng chị không hề lo sợ về mình, chỉ nghĩ đến cách mạng, đồng đội(BVHS). (c) Chị Út Tịch được giao nhiệm vụ cực kì quan trọng trong khi chị đang có con chưa thành người(BVHS). (d) Không có miếng ăn, người mẹ không tiếc gì cái chết của chính mình mà chỉ thương cho các con vô tội, phải chết oan uổng “(BVHS). (e) Nỗi thất vọng của tình yêu còn lớn hơn vì tình yêu dẫn đến không đưa tới hạnh phúc(BVHS). Trong ví dụ (a) , nội dung biểu đạt của cụm từ bao tác phẩm quý giá về văn học yêu nướclệch lạc, luẩn quẩn. Sự luẩn quẩn này bộc lộ qua mối quan hệ về nghĩa giữa bao tác phẩm quý giávới văn học yêu nước. Trong ví dụ (b), sự lệch lạc của cụm từ đang nằm trong sự thâm độc của bọn giặc bộc lộ qua mối quan hệ về nghĩa giữa đang nằm với sự thâm độc của bọn giặc. Bởi vì sự thâm độc của bọn giặckhông phải là một phạm vi không gian, cho nên không thể kết hợp với đang nằm. Trong ví dụ (c), nội dung biểu đạt của cụm từ đang có con chưa thành người có sự mâu thuẫn về nghĩa giữa đang có con với chưa thành người. Ðã nói đang có con thì không thể nói chưa thành người. Bởi vì con ở đây cũng là con người. Trong ví dụ (d), không tiếc gìkhông tương hợp với cái chết của chính mình. Bởi vì không tiếc gì có nghĩa là : sẵn sàng rời bỏ, sẵn sàng chịu mất đi, chịu hi sinh. Mà cái chết của chính mìnhthì không thể nào là đối tượng của việc sẵn sàng rời bỏ, sẵn sàng chịu mất đi, chịu hi sinh. Trong câu (e), nội dung biểu đạt của cụm từ dẫn đến không đưa tớicó sự mâu thuẫn về nghĩa giữa dẫn đến với không đưa tới. (Ngoài ra, trong câu này, học sinh còn chọn sai từ của. Phải thay bằng từ trong mới đúng). Hiện tượng kết hợp sai nghĩa từ vựng có nhiều mức độ khác nhau, dẫn đến hậu quả khác nhau. Kết hợp sai nhẹ sẽ làm cho cụm từ luẩn quẩn hay lệch lạc về nghĩa. Các câu (a), (b) thuộc trường hợp này. Kết hợp sai nặng có thể làm cho các thành tố trong cụm từ mâu thuẫn với nhau về nghĩa. Chẳng hạn như trong các câu (c), (d), (e) đã dẫn. Trong bài viết của học sinh, lỗi kết hợp sai nghĩa từ vựng xuất hiện khá phổ biến. Hơn 40% bài viết của học sinh mà chúng tôi đã khảo sát vi phạm loại lỗi này. Bài sai ít là một, hai lỗi. Bài sai nhiều lên đến năm, sáu lỗi. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lỗi kết hợp sai nghĩa từ vựng là do tư duy của học sinh thiếu mạch lạc ; học sinh không xác định được một cách rõ ràng, cụ thể nội dung cần biểu đạt, không hiểu chính xác nghĩa của từ và khả năng kết hợp của chúng, xét về mặt nghĩa từ vựng. Sửa chữa loại lỗi này, phải tiến hành từng bước. Trước hết, dựa vào văn cảnh của câu, chúng ta xác định rõ ràng, cụ thể nội dung mà học sinh muốn biểu đạt. Tiếp theo, trên cơ sở nội dung biểu đạt đã xác định được, loại bỏ các yếu tố không có liên quan, không tương hợp về nghĩa với yếu tố khác, và chọn từ, ngữ khác để thay thế. Nếu cụm từ có yếu tố dư thừa thì loại bỏ. Ðối với trường hợp cả cụm từ không phản ánh đúng nội dung muốn biểu đạt, chúng ta tạo ra cụm từ khác để thay thế. Các trường hợp kết hợp sai vừa dẫn có thể sửa chữa như sau : (a) Vì thế mà văn học thời kì này đã để lại nhiều tác phẩm quý giá, mang đậm tinh thần yêu nước... (b) Chị Sứ đang nằm trong tay của bọn giặc / đang bị bọn giặc bắt giữ, gần kề với cái chết, nhưng chị không hề lo sợ cho bản thân mình ... (c) Chị Út Tịch được giao nhiệm vụ cực kì quan trọng trong khi chị đang mang thai / đang bụng mang dạ chửa, sắp đến ngày sinh nở. (d) Không có miếng ăn, người mẹ không tiếc gì mạng sống / sinh mệnh của mình, mà chỉ thương cho các con vô tội... (e) Nỗi thất vọng trong tình yêu còn lớn hơn, vì tình yêu đã không mang lại hạnh phúc. Ở đây, cần phân biệt lỗi kết hợp sai nghĩa từ vựng với hiện tượng kết hợp sai ngữ pháp như sai đặc điểm từ loại, sai vị trí các thành tố trong cấu tạo cụm từ. So sánh các ví dụ sau đây : (a) Chị Sứ đang nằm trong sự thâm độc của bọn giặc ...(BVHS). (b) Dưới sự lãnh đạo rất tài năng của Ðảng, nhân dân ta đã tiến hành thắng lợi hai cuộc cách mạng giải phóng dân tộc(BVHS). (c) Có người phải qua tám, chín năm rèn luyện trong kháng chiến mới hiểu được câu nói của Bác rất đơn sơ(NLPBCL, T.III). Trong ví dụ (a), động từ nằmcó thể kết hợp với danh từ, ngữ danh từ làm bổ tố đứng sau, xét về mặt ngữ pháp. Nhưng về mặt nghĩa, danh từ, ngữ danh từ phải mang nét nghĩa nơi chốn, vị trí cụ thể hay trừu tượng (nằm trong bụng mẹ, nằm trong buồng tối...). Như vậy, hiện tượng kết hợp sai ở đây là sai về nghĩa từ vựng. Trong ví dụ (b), phó từ chỉ mức độ rất không thể kết hợp với danh từ tài năng, chỉ sự vật. Kết hợp như vậy là sai đặc điểm từ loại. Những trường hợp rất kết hợp với danh từ mà theo chuẩn mực ngữ pháp, có thể chấp nhận được, thực chất, các danh từ này đã chuyển loại, mang đặc điểm của tính từ (rất Việt Nam, rất trăng). Trong ví dụ (c), vị trí của các định tố trong cụm từ câu nói của Bác rất đơn sơđã bị kết hợp sai. Theo chuẩn mực ngữ pháp, trong ngữ danh từ, định tố biểu thị ý nghĩa tính chất phải đứng trước định tố biểu thị ý nghĩa sở thuộc. Do đó, phải chuyển đổi vị trí hai định tố lại : câu nói rất đơn sơ của Bác. Hiện tượng kết hợp sai vị trí của các định tố như vậy có thể dẫn đến sai ngữ pháp ở cấp độ tổ chức câu. Ðó là câu chập cấu trúc ngữ pháp. 3.2. Kết hợp trùng lặp, thừa từ ngữ : Loại lỗi này gồm hai kiểu lỗi nhỏ, có liên quan với nhau : kết hợp trùng lặp và kết hợp thừa. Kết hợp trùng lặp là hiện tượng lặp đi lặp lại một cách tự phát và không cần thiết những từ, ngữ nào đó trong câu. Ví dụ : (a) Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của nền văn học và nhiều tác phẩm viết bằng chữ Hán, trong những tác phẩm viết bằng chữ Hán thì tác phẩm Những điều trông thấylà tác phẩm nổi bật(BVHS). (b) Chị tuyệt đối trung thành với đường lối chính sách của Ðảng của cách mạng, tuyệt đối trung thành vào đường lối cách mạng cao, đường lối sách lược của cách mạng(BVHS). (c) Có nhiều nhà thơ đã dùng thơ văn của mình làm vũ khí đấu tranh,tố cáo tội ác của giặc, kêu gọi đoàn kết đấu tranh, tiêu biểu là Nguyễn Ðình Chiểu đã dùng thơ văn của mình như một vũ khí đấu tranh sắc bén đánh thẳng vào mặt kẻ thù (BVHS). (d) Chúng ta suy nghĩ thế nào về hình ảnh người mẹ cầm súng đang trực diện với kẻ thù, quả thật đây là hình ảnh vô cùng cao đẹp, một hình ảnh chỉ có thể có được ở chị Út, người chiến sĩ cách mạng chân chính của nhân dân ta(BVHS). Hiện tượng kết hợp trùng lặp từ, ngữ xuất hiện khá phổ biến trong bài viết của học sinh THPT, nhất là học sinh lớp 10 và 11. Trong số lượng bài viết của học sinh THPT mà chúng tôi đã khảo sát, có hơn 50% bài mắc loại lỗi này. Bài sai ít là bài có hai, ba lỗi. Bài sai nhiều lên đến năm, bảy lỗi. Cá biệt, có bài sai hàng chục lỗi. Trong bài viết học sinh cấp THCS, loại lỗi này xuất hiện nhiều hơn. Kết hợp trùng lặp từ, ngữ sẽ làm cho câu văn đơn điệu, nặng nề, tạo ra những yếu tố thừa thãi không cần thiết, và có thể làm cho câu văn rối cấu trúc ngữ pháp, lủng củng về ý nghĩa. Kết hợp thừa từ ngữ là hiện tượng sử dụng từ, ngữ có nội dung biểu đạt đồng nhất hay bao hàm lẫn nhau trong văn cảnh, và sự đồng nhất hay bao hàm này là không cần thiết. Ví dụ : (a) Họ nguyện chiến đấu đến cùng cho đến chết (BVHS). (b) Bài thơ đã thốt lên kêu trời trước nỗi đau của người mẹ đã không nuôi nổi đàn con, đành phải nhìn chúng chết đói(BVHS). (c) Nói về tình cảnh khổ cực của nhân dân lao động bị áp bức, Ngô Tất Tố có sáng tác tác phẩm Tắt đènnói lên cảnh nghèo khổ của vợ chồng chị Dậu(BVHS). (d) Mặc dù anh đã chết, nhưng cái chết của anh đã thể hiện một tinh thần chiến đấu vô biên, hiên ngang, bất khuất, không chịu khuất phục trước kẻ thù, ngay khi hồn đã lìa khỏi xác(BVHS). Hiện tượng từ, ngữ có nội dung biểu đạt đồng nhất hay bao hàm lẫn nhau trong văn cảnh xuất hiện khá nhiều trong bài viết của học sinh. Hiện tượng này tạo nên sự thừa thãi, luộm thuộm, và có thể làm cho câu văn lủng củng về cấu trúc cũng như ý nghĩa. Nhìn chung, nguyên nhân dẫn đến lỗi kết hợp trùng lặp, thừa từ, ngữ là do học sinh nghèo nàn về vốn từ, hiểu nghĩa của từ, ngữ không chính xác. Lỗi này còn do học sinh không bao quát được thông báo của cả câu, suy nghĩ thiếu chặt chẽ trong quá trình viết. Sửa lỗi kết hợp trùng lặp, trước hết, dựa vào chức năng cấu tạo câu, chúng ta xét xem từ, ngữ trùng lặp có thừa không. Nếu thừa thì loại bỏ. Ðối với từ, ngữ trùng lặp nhưng không thừa, do sự quy định của cấu trúc câu, chúng ta tìm từ, ngữ khác có giá trị biểu đạt tương đương để thay thế. Trong trường hợp câu có nhiều ngữ đoạn trùng lặp chồng chéo, rối rắm về ý nghĩa, chúng ta có thể thay đổi cách diễn đạt ở những chỗ cần thiết. Các trường hợp trùng lặp vừa dẫn có thể sửa chữa như sau : (a) Nguyễn Du là một nhà thơ lớn, có nhiều đóng góp trong nền văn học cổ Việt Nam, (.) trong các tác phẩm viết bằng chữ Hán của ông, Những điều trông thấylà một trong những bài thơ tiêu biểu. Câu (a) được sửa theo cách loại bỏ ngữ đoạn trùng lặp, thừa thãi, kết hợp với việc thay thế bằng từ ngữ khác và thay đổi cách diễn đạt. (b) Chị tuyệt đối trung thành với đường lối, chính sách của Ðảng, của cách mạng. Câu (b) được sửa theo cách loại bỏ các ngữ đoạn trùng lặp, thừa thãi. (c) Có nhiều nhà thơ đã dùng ngòi bút làm vũ khí đấu tranh, tố cáo (vạch trần) tội ác của giặc, kêu gọi nhân dân đoàn kết chống kẻ thù, tiêu biểu là Nguyễn Ðình Chiểu. (d) Chúng ta suy nghĩ thế nào về hình ảnh người mẹ cầm súng đang đấu tranh trực diện với kẻ thù ? Hình ảnh ấy thật cao đẹp, mang tính chất tiêu biểu cho người chiến sĩ cách mạng chân chính. Hai câu (c) và (d) sửa lại theo cách loại bỏ bớt yếu tố trùng lặp, thừa thãi, loại bỏ ngữ đoạn có nội dung biểu đạt thiếu chính xác. Sửa chữa lỗi kết hợp thừa từ, ngữ, chủ yếu là chúng ta loại bỏ các yếu tố thừa thãi, kết hợp với việc thay đổi cách diễn đạt, nếu thấy cần thiết. Các hiện tượng kết hợp thừa từ, ngữ đã dẫn có thể sửa chữa lại như sau : (a) Họ nguyện chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng / đến cùng. (b) Bài thơ là tiếng kêu thương trước nỗi đau của một người mẹ, đã không nuôi nổi đàn con, đành phải nhìn chúng chết đói. (c) Viết về tình cảnh khốn quẫn, cùng đường của người nông dân (trong chế độ thực dân nửa phong kiến), Tắt đèncủa Ngô Tắt Tố là một trong những tác phẩm tiêu biểu. Hay : Tắt đèncủa Ngô Tất Tố là tác phẩm viết về tình cảnh khốn quẫn, cùng đường của vợ chồng chị Dậu. (d) Mặc dù anh hi sinh, nhưng cái chết của anh đã thể hiện nổi bật tinh thần chiến đấu hiên ngang, bất khuất trước kẻ thù. Cần phân biệt lỗi kết hợp trùng lặp với hiện tượng lặp từ, ngữ một cách có ý thức, nhằm thể hiện nổi bật nội dung muốn biểu đạt. So sánh : (a) Chị tuyệt đối trung thành với đường lối, chính sách của Ðảng, tuyệt đối trung thành với lí tưởng cách mạng mà mình đã đeo đuổi(BVHS). (b) Có nhiều nhà thơ đã dùng thơ văn của mình làm vũ khí đấu tranh, tố cáo tội ác của giặc, kêu gọi đoàn kết đấu tranh, tiêu biểu là Nguyễn Ðình Chiểu đã dùng thơ văn của mình như một vũ khí đấu tranh sắc bén đánh thắng vào mặt kẻ thù (BVHS). Trong câu (a) , tổ hợp tuyệt đối trung thành được lặp lại với mục đích nhấn mạnh lập trường kiên định của nhân vật chị Út Tịch. Thực chất, đây chính là phép tu từ điệp ngữ, một trong những biện pháp tu từ về mặt từ vựng - ngữ nghĩa. Còn trong câu (b), hiện tượng lặp lại các cụm từ dùng thơ văn của mình, vũ khí đấu tranhchỉ làm cho câu văn nặng nề, lủng củng, tạo nên sự thừa thãi, chớ không có giá trị gì về mặt nội dung biểu đạt. 3.3. So sánh khập khễnh : So sánh khập khễnh là loại lỗi kết hợp, trong đó đối tượng được so sánh và đối tượng dùng để so sánh không có dấu hiệu tương đồng hay dấu hiệu tương đồng không tiêu biểu. Trên bình diện tu từ, so sánh là một biện pháp trau chuốt, gọt giũa từ ngữ, trong đó, người viết đối chiếu hai hay nhiều đối tượng có một dấu hiệu tương đồng nào đó, nhằm làm nổi bật lên đặc điểm của đối tượng được nói đến. So sánh tu từ nếu được vận dụng đúng, giữa đối tượng được so sánh và đối tượng dùng để so sánh có dấu hiệu tương đồng, mang tính chất tiêu biểu, thì ngôn ngữ trở nên sinh động, giàu sắc thái gợi tả, gợi cảm. Ví dụ: Chế độ phong kiến nanh ác đã cướp lại miếng mồi ngon của nó. Thúy Kiều sẽ như đóa hoa trên ngọn sóng, ba chìm bảy nổi, phiêu dạt khôn cùng(NLPBCL, T.III ). Nhưng nếu học sinh không nắm vững cách dùng biện pháp tu từ này thì dễ dẫn đến hiện tượng so sánh khập khễnh, một kiểu lỗi kết hợp. Ví dụ: (a) Mẹ con chị Uït giống như những vì sao trên trời, sau cơn mưa, những vì sao ấy quần tụ lại với nhau, sáng lấp lánh(BVHS). (b) Sức mạnh của đoàn kết như một đàn trâu cày phăng phăng thửa ruộng(BVHS). (c) Nếu như những thiên thần thoại, truyền thuyết giống như những lớp sóng cồn giữa đại dương ầm ì vang dội, thì những câu ca dao, dân ca giống như cơn gió thoảng giữa trưa hè ru ngủ hồn ta”(BVHS). Trong câu (a), giữa mẹ con chị Uït, đối tượng được so sánh, và những vì sao trên trời, đối tượng dùng để so sánh, không có điểm tương đồng nào cả. Biện pháp so sánh này không thể chấp nhận được. Trong ví dụ (b), đối tượng dùng để so sánh quá thô vụng. Không thể dùng hình ảnh một đàn trâu cày phăng phăng thửa ruộngđể ví von với sức mạnh của đoàn kết.Trong câu (c), học sinh đã dùng phép so sánh hai lần. Thứ nhất là so sánh những thiên thần thoại, truyền thuyếtvới những lớp sóng cồn giữa đại dương. Ở đây, khó mà xác định được dấu hiệu tương đồng giữa hai đối tượng. Thứ hai là so sánh những câu ca daovới cơn gió thoảng giữa trưa hè. Ðọc thoáng qua, tưởng chừng như có thể chấp nhận được. Nhưng cân nhắc kĩ, chúng ta thấy cách so sánh này vẫn khập khễnh. Bởi vì, nội dung ca dao, dân ca không chỉ là nhẹ nhàng, mát mẻ như cơn gió thoảng giữa trưa hè. Lỗi so sánh khập khễnh xuất hiện tương đối ít trong bài viết của học sinh, ít nhất so với các loại lỗi dùng từ khác. Nguyên nhân dẫn đến lỗi so sánh là do, một mặt suy nghĩ của học sinh non nớt, vụng về ; mặt khác, học sinh lại muốn trau chuốt, đẽo gọt chữ nghĩa, nhưng không nắm vững biện pháp tu từ này. Ðối với lỗi so sánh khập khễnh, chỉ có thể sửa chữa bằng cách loại bỏ đối tượng dùng để so sánh, xác định lại nội dung học sinh muốn biểu đạt, trên cơ sở đó, vận dụng các phương tiện từ vựng, cú pháp tổ chức lại câu sao cho phù hợp với chuẩn mực ngữ pháp. Ba ví dụ vừa dẫn có thể sửa chữa như sau : (a) Sau mỗi trận đánh, mẹ con chị Út lại sum họp, quây quần bên nhau, trông thật đầm ấm, cảm động. (b) Tinh thần đoàn kết có thể tạo nên sức mạnh dời non lấp biển. (c) Nếu thần thoại, truyền thuyết thiên về mặt phản ánh những vấn đề trọng đại, lớn lao của lịch sử, xã hội, thì ca dao, dân ca có xu hướng thể hiện đời sống tâm tư, tình cảm, phong tục, tập quán muôn màu muôn vẻ của nhân dân.
File đính kèm:
- ren_luyen_ky_nang_dung_tu.docx