Phòng, chống tham nhũng gắn với kiểm soát quyền lực và vai trò của kiểm toán nhà nước
Tham nhũng là hiện tượng xã hội được sinh ra từ chế độ chiếm hữu nô lệ - Khởi nguồn của chế độ tư hữu và tiếp diễn trong suốt diễn trình lịch sử loài người cho đến nay. Đặc biệt, từ nửa cuối thế kỷ thứ XX, tham nhũng nổi lên như căn bệnh kinh niên, ác tính bùng phát, không chỉ đe doạ đến nền kinh tế, văn hóa lẫn đạo đức của loài người mà còn có sức tàn phá và kìm hãm rất lớn đối với sự phát triển của mọi quốc gia. Chính vì vậy, trong khoảng 30 năm trở lại đây, nhiều quốc gia, nhiều khu vực đã hao tâm, tổn trí rất nhiều vào việc tìm kiếm những giải pháp, đưa ra những tuyên bố đầy quyết tâm và mở những chiến dịch bền bỉ để ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng một cách hữu hiệu, song hiệu quả cũng còn xa mới đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển và đòi hỏi của nhân loại tiến bộ. Việt Nam cũng không là ngoại lệ trong cuộc chiến cam go này. Vì thế, đấu tranh phòng, chống tham nhũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Chưa bao giờ, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng lại được Đảng, Nhà nước ta lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt như hiện nay. Một trong những giải pháp hữu hiệu của cuộc chiến phòng chống tham nhũng là phải gắn liền với kiểm soát quyền lực. Do đó, bài viết sẽ tập trung bàn luận về phòng chống tham nhũng gắn liền với cơ chế kiểm soát quyền lực, những nhân tố tác động đến kiểm soát quyền lực và vai trò của Kiểm toán nhà nước (KTNN) trong vấn đề kiểm soát quyền lực để phòng chống tham nhũng
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phòng, chống tham nhũng gắn với kiểm soát quyền lực và vai trò của kiểm toán nhà nước
lối đúng thì khâu quyết định là lựa chọn đúng cán bộ. Người căn dặn: Cán bộ là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân. Người cho rằng: “Đức” là cái gốc của cán bộ. Để chống lại tình trạng lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân, Người đòi hỏi các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và cán bộ phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân và sự kiểm tra, giám sát của tổ chức Đảng. Người nhắc nhở: “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”[ 104; 1]. Vì vậy, cần phải “quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cách sửa chữa sai lầm đó”, “cán bộ muốn cho xứng đáng, phải làm được việc”[208; 1]. Thứ hai, Kiểm soát quyền lực thông qua việc thực thi một cách thực chất, đầy đủ và rộng rãi quyền làm chủ của Nhân dân, cả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ tham dự; thực hiện nghiêm túc quan điểm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”; thông qua chế độ tranh cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý công khai, minh bạch; mọi công việc của đất nước, của Nhân dân phải rất coi trọng chế độ công khai, minh bạch: Công khai, minh bạch chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tất cả các tổ chức, các cơ quan, đơn vị, của tất cả các cá nhân từ người giữ cương vị cao nhất đến cán bộ, công chức, viên chức để Nhân dân kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện; công khai, minh bạch thông tin và trách nhiệm giải trình của các tổ chức và cá nhân được trao quyền lực; thông qua việc kiểm tra, giám sát của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, của Nhân dân, của công luận; thông qua việc tự do tư tưởng, tự do ngôn luận để Nhân dân thể hiện chính kiến của mình tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng hệ thống chính trị; Nhân dân tham gia xây dựng đất nước, làm chủ đất nước. 3.2. Giải pháp kiểm soát quyền lực để chống sự tùy tiện Để thực hiện có hiệu lực, hiệu quả việc trao quyền lực và kiểm soát việc thực thi quyền lực và chống tha hóa quyền lực của cán bộ, đảng viên, công chức trong thời gian tới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, theo chúng tôi cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau đây: Một là, cụ thể hóa các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng nói chung, các tổ chức đảng nói riêng và tổ chức thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc này. Xây dựng quy chế, quy định cụ thể việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, 16 Kieåm toaùn nhaø nöôùc vôùi nhieäm vuï phoøng choáng tham nhuõng NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 138 - tháng 4/2019 nguyên tắc tự phê bình và phê bình, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Sớm ban hành quy chế dân chủ trong Đảng; Quy định về chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội; quy chế đối thoại giữa người đứng đầu tổ chức đảng, tổ chức nhà nước với nhân dân; quy chế truy cứu trách nhiệm của tập thể tổ chức đảng và cá nhân đảng viên có khuyết điểm, vi phạm và tổ chức thực hiện nghiêm túc quy chế này. Hai là, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách và pháp luật của Nhà nước PQXHCN một cách đồng bộ, chặt chẽ, hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo cán bộ, công chức và viên chức không muốn, không cần, không thể và không dám lạm quyền, lộng quyền để tham nhũng nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn sự tha hóa quyền lực một cách hiệu quả. Mục tiêu, yêu cầu của việc trao và thực thi quyền lực được trao của cán bộ, công chức và viên chức phải bảo đảm nguyên tắc: Rõ quyền; đủ quyền; đúng quyền; thực quyền; trong thực thi quyền lực phải thực hiện đúng và hết trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; phối hợp thực thi quyền lực giữa các cơ quan theo đúng quy định. Không được: Lạm quyền; lộng quyền; tiếm quyền; cướp quyền; trộm quyền; tranh đoạt quyền; ngơ quyền; né tránh quyền hoặc đùn đẩy quyền của mình cho cấp trên hoặc cho cơ quan, đơn vị, tổ chức khác giải quyết, xử lý (nếu thấy không có lợi hoặc không đủ tự tin) để chối bỏ trách nhiệm; làm trái chức trách, nhiệm vụ được giao một cách tùy tiện. Ba là, nghiên cứu thực hiện chế độ phân cấp, phân quyền theo hướng đổi mới tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị đồng bộ, tinh giản đầu mối tránh chồng chéo, phù hợp chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao của mỗi tổ chức, phù hợp, thống nhất giữa cấp trên với cấp dưới; không nhất thiết cứ cấp trên có tổ chức nào cấp dưới cần có tổ chức đó; tinh giản biên chế theo hướng tinh gọn, rõ việc, rõ người, không chồng chéo chức trách, nhiệm vụ. Bốn là, ban hành và tổ chức thực hiện tốt chế độ đối thoại dân chủ trong Đảng, đối thoại với cơ sở. Thực hiện chế độ thường xuyên nghiên cứu, tổng kết thực tiễn bảo đảm khoa học, thiết thực, tránh hình thức để rút ra những bài học hữu ích. 3.3. Tăng cường trách nhiệm giải trình của tổ chức và cá nhân Theo quy định của Nghị định 90, giải trình là việc cơ quan nhà nước cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó. Nghị định này quy định về điều kiện tiếp nhận yêu cầu giải trình; quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu giải trình và người giải trình; trình tự, thủ tục của việc giải trình và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện các quy định về trách nhiệm giải trình. Nguyên tắc thực hiện và áp dụng pháp luật về trách nhiệm giải trình là bảo đảm công khai, minh bạch, đầy đủ, kịp thời và đúng thẩm quyền; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân. Công khai, minh bạch là một nội dung quan trọng mang tính đặc trưng của NNPQXHCN. Mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động của mình, trừ nội dung thuộc bí mật Nhà nước và những nội dung khác theo quy định của pháp luật thuộc bí mật Nhà nước. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin đồng nghĩa với việc thực hiện công khai, minh bạch của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Quyền tiếp cận thông tin và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của cá nhân, tổ chức là một biện pháp rất quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. 4. Vai trò của cơ quan kTNN trong kiểm soát quyền lực và phòng chống tham nhũng Theo những luận giải vừa phân tích ở trên, các chiến lược hữu hiệu để chống lại tham nhũng là tìm cách giảm sự độc quyền của các công chức, viên chức nhà nước, giảm quyền tự quyết và nâng cao tính trách nhiệm giải trình. Việc làm này được thực hiện bằng cách tiến hành một cách sâu rộng nền hành chính công, trong đó tăng cường vai trò của cơ quan giám sát độc lập - cơ quan Kiểm toán nhà nước. 17NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 138 - tháng 4/2019 Kiểm toán nhà nước chính là một bộ phận quan trọng cấu thành bộ máy và cơ chế kiểm soát TC&THQLNN không thể thiếu trong NNPQXHCN. Tài chính công là công cụ bảo đảm nguồn lực tài chính cho việc duy trì sự tồn tại và hoạt động có hiệu quả của bộ máy Nhà nước; là công cụ quan trọng trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Do đó, tài chính công là đối tượng quan trọng phải được kiểm tra kiểm soát và chủ thể kiểm tra kiểm soát đó chính là KTNN, sự ra đời và tồn tại cũng như hoạt động KTNN là nhu cầu thiết yếu của Nhà nước pháp quyền XHCN. Với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính công do Quốc hội thành lập, thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN góp phần quản lý điều hành có hiệu quả tài chính công và tài sản công. KTNN không chỉ góp phần quản lý chặt chẽ các khoản chi tiêu công chống tham ô, lãng phí, thất thoát, mà quan trọng hơn phải làm cho đồng tiền thuế của nhân dân được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả cao. KTNN kiểm toán để kiểm soát chi tiêu công so sánh chi phí đầu vào và kết quả đầu ra để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tài chính công. KTNN từng bước đẩy mạnh kiểm toán hoạt động để phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội trong sử dụng nguồn lực công, nhất là các dự án đầu tư, các chương trình mục tiêu quốc gia. KTNN góp phần ngăn ngừa rủi ro, răn đe phòng ngừa sai phạm để nâng cao hiệu quả trong chi tiêu công khi thực hiện kiểm toán trước “tiền kiểm” và “hậu kiểm” các khoản chi tiêu công. Kiểm toán trước có lợi ích là ngăn ngừa những thiệt hại ngay trước khi nó xảy ra, tránh lãng phí nguồn lực; còn “hậu kiểm: để chỉ rõ trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân liên quan trong việc vi phạm đến chế độ, chính sách quản lý tài chính công. Tổng hợp kết quả kiểm toán từ khi thành lập 1994 cho đến năm 2018, KTNN đã phát hiện và kiến nghị xử lý về tài chính hàng trăm nghìn tỷ đồng, chủ yếu là tăng thu và giảm chi NSNN, ghi thu - ghi chi để quản lý qua NSNN. Đặc biệt trong năm 2018, KTNN đã kiến nghị xử lý tài chính đến ngày 31/12/2018 là 89.600 tỷ đồng (trong đó, thu về NSNN 20.518 tỷ đồng, giảm chi NSNN 23.948 tỷ đồng, kiến nghị xử lý khác 45.134 tỷ đồng), trong đó tăng thu, giảm chi NSNN (44.466 tỷ đồng) tăng 18,39% so với năm 2017 (37.556 tỷ đồng). Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng nhấn mạnh, đây là kết quả đạt được cao nhất từ trước đến nay. Qua kiểm toán, KTNN còn kiến nghị sửa đổi, hủy bỏ 115 văn bản pháp luật (2 luật, 4 nghị định; 15 thông tư; 15 nghị quyết; 28 quyết định; 51 văn bản khác) nhằm bịt lỗ hổng về cơ chế, tổ chức thực hiện quy định của Nhà nước tránh thất thoát, lãng phí; kiến nghị xử lý trách nhiệm theo quy định của pháp luật đối với hàng chục tập thể và cá nhân. Đáng chú ý, KTNN đã chuyển hồ sơ 5 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật được phát hiện thông qua kết quả kiểm toán sang Cơ quan Cảnh sát điều tra để điều tra, làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.[5] Quan trọng hơn, thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN có điều kiện xem xét đánh giá chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống tiêu chuẩn định mức, chế độ chi và nhận diện được những bất cập, không phù hợp với thực tiễn hoặc những kẽ hở trong chính sách để góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách, hệ thống chế độ định mức, tiêu chuẩn chi tiêu công nhằm nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý kiểm tra, kiểm soát chi tiêu công. Đặc biệt, qua kết quả kiểm toán, tính riêng từ năm 2006 kể từ khi Luật KTNN có hiệu lực cho đến nay, KTNN đã kiến nghị Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ gần 500 văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quản lý sai quy định hoặc không phù hợp với thực tế để bịt lỗ hổng về chính sách và pháp luật. Thông qua báo cáo quyết toán NSNN hàng năm, Quốc hội, Chính phủ, HĐND các cấp có thêm thông tin đáng tin cậy để xem xét, đánh giá công tác quản lý, điều hành ngân sách của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp. Những thông tin từ báo cáo kiểm toán quyết toán NSNN cùng với ý kiến thẩm tra của các cơ quan của Quốc hội, HĐND, cũng như ý kiến giải trình thuyết minh của Chính phủ, UBND là cơ sở quan trọng để Quốc 18 Kieåm toaùn nhaø nöôùc vôùi nhieäm vuï phoøng choáng tham nhuõng NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 138 - tháng 4/2019 hội, HĐND thảo luận, quyết định các cơ chế, chính sách và giải pháp phù hợp nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tích cực nâng cao hiệu quả quản lý điều hành NSNN trong từng giai đoạn cụ thể. Những kết luận, kiến nghị của KTNN ở tầm vĩ mô mang tính hệ thống sẽ là căn cứ khoa học thực tiễn để cho Chính phủ, Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, các Bộ, Ngành điều chỉnh các quyết sách của mình đối với nền kinh tế, xử lý kịp thời những sai phạm, các mất cân đối trong việc thu chi và sử dụng tài chính công nói riêng và hoạt động nền kinh tế nói chung. Như là một phần không thể thiếu của quản trị quốc gia, KTNN thực hiện chức năng của mình theo quy định của pháp luật, đảm bảo chức năng giám sát, kiểm tra, đánh giá và đưa ra những kiến nghị về chính sách vĩ mô của quốc gia. Do đó KTNN phải tạo được niềm tin, sự trung thực, khách quan và sẽ tiếp tục đóng góp vào việc: - Bảo vệ nền dân chủ và pháp quyền bằng cách nâng cao tính minh bạch, giữ vững trật tự, chống lại việc lạm dụng quyền lực. Trong một số trường hợp, KTNN đóng vai trò cố vấn bằng các kiến nghị về thay đổi hoàn thiện hệ thống pháp luật. KTNN có thể giúp nâng cao niềm tin giữa Nhà nước và người dân bằng cách thúc đẩy Chính phủ mở cửa và người dân được đóng góp ý kiến nhiều hơn nữa. - Nâng cao hiệu quả quản trị bằng cách kiểm tra và đánh giá các hoạt động của Chính phủ, chỉ ra những yếu kém, tồn tại cần khắc phục. KTNN đưa ra những kiến nghị mang tính độc lập và khách quan, khuyến khích Chính phủ tăng cường kiểm soát hơn nữa. KTNN cũng thúc đẩy việc sử dụng hợp lý các nguồn lực nhằm nâng cao hiệu quả trong quản lý, phân bổ, sử dụng tài chính công tránh thất thoát, lãng phí và phòng chống tham nhũng. - KTNN đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chiến chống tham nhũng và gian lận ở cả cấp quốc gia và quốc tế. KTNN với những kinh nghiệm được đúc rút từ thực tiễn kiểm toán, một mặt tăng cường tính minh bạch, mặt khác đưa ra những sáng kiến mới về chống tham nhũng bằng việc bịt các kẽ hở của hệ thống chính sách và pháp luật. - Bảo vệ lợi ích quốc gia, bằng cách sử dụng tính độc lập, khả năng dự báo và năng lực chuyên môn để cung cấp thông tin kịp thời, khách quan và đáng tin cậy, chỉ ra những rủi ro tiềm tàng về kinh tế và xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững đất nước. - Thúc đẩy việc cải thiện đời sống của người dân bằng cách kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng nguồn vốn và các dự án của Chính phủ, đảm bảo đạt được mục tiêu đề ra, nhằm cải thiện cuộc sống người dân và quyền bình đẳng cho tất cả mọi người, kể cả các nhóm dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. - Tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm thông qua việc kiểm toán và công khai kết quả kiểm toán nhằm thúc đẩy trách nhiệm giải trình, đồng thời khuyến khích Chính phủ và các tổ chức thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực. KTNN cung cấp cho xã hội và người dân những thông tin đã được kiểm toán và chỉ ra những trách nhiệm liên quan, qua đó tăng cường tính minh bạch hơn nữa. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, NXB CTQG, H., 2000; 2. Kenneth M Dye and Rick Stapenhurst: Pillars of Integrity: The Importance of SupremeAudit Institutions in Curbing Corruption. The Economic Development Institute of the World Bank 1998; 3. Nguyễn Đình Hòa: Kiểm soát quyền lực và hiến định vai trò của Kiểm toán nhà nước và Tổng KTNN là một tất yếu khách quan. Tạp chí NCKHKT Số 67. 5-2013; 4. Nguyễn Đình Hòa: Vai trò của Kiểm toán nhà nước trong việc tăng cường trách nhiệm giải trình của Chính phủ nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng NSNN. Tạp chí NCKHKT Số 102 tháng 4/2016; 5. Báo Kiểm toán số 4 năm 2019.
File đính kèm:
- phong_chong_tham_nhung_gan_voi_kiem_soat_quyen_luc_va_vai_tr.pdf