Phát triển nông nghiệp bền vững – Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam
Thế giới ngày nay đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề như tốc độ gia tăng dân
số ngày càng cao, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, ô nhiễm môi trường,
biến đổi khí hậu, đã đặt ra những bài toán thách thức đối với nền nông nghiệp
toàn cầu. Phát triển nông nghiệp bền vững là xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế
giới, đặc biệt là đối với các nước đi lên từ kinh tế nông nghiệp để đạt được giá trị
lớn hơn về kinh tế, đảm bảo an ninh lương thực, an sinh xã hội và hạn chế ô nhiễm
môi trường.
Với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, khi gần 70 % cư dân sinh sống ở
khu vực nông thôn và bắt đầu tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ một nền
kinh tế nông nghiệp, việc tham khảo những kinh nghiệm thành công trong phát
triển nông nghiệp bền vững của Trung Quốc, Thái Lan, Israel là hết sức quan trọng
và cần thiết.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển nông nghiệp bền vững – Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam
an ninh, phát triển kinh tế - xã hội thì cần phải có cơ chế bồi thường thỏa đáng về đất, bồi thường chi phí đầu tư và tài sản gắn liền với đất; đồng thời hỗ trợ chi phí về ổn định đời sống, hỗ trợ đào tạo để chuyển đổi nghề, hỗ trợ tái định cư, Và mức bồi thường và hỗ trợ này phải cáo hơn 6 – 10 lần so với giá trị đất bị thu hồi tính theo giá của thị trường. Thứ hai, về thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp Nông nghiệp là ngành kinh tế khó thu hút vốn đầu tư bởi vì hiệu quả đầu tư và lợi nhuận mang lại thấp hơn nhiều so với lợi nhuận từ các ngành kinh tế khác, lại luôn phải đối mặt với sự bấp bênh trong sản xuất do thiên tai, dịch bệnh và giá cả biến động thất thường; trong khi đó nguồn lực tại chỗ và nguồn lực của người nông dân rất yếu TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 3 (2020) 61 kém. Tính đến ngày 31/12/2018, Việt Nam có 714.755 doanh nghiệp đang hoạt động [2, tr. 25]; trong đó: khu vực dịch vụ có 475.842 doanh nghiệp; khu vực công nghiệp và xây dựng có 228.047 doanh nghiệp; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có 10.766 doanh nghiệp [2, tr. 25], chỉ chiếm 1,76% tổng số doanh nghiệp của cả nước. Tổng số vốn sử dụng cho sản xuất kinh doanh của toàn bộ doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh tại thời điểm 31/12/2017 đạt 33 triệu tỷ đồng, trong đó: khu vực dịch vụ thu hút 21,3 triệu tỷ đồng (chiếm 64,6%); khu vực công nghiệp và xây dựng thu hút 11,3 triệu tỷ đồng (chiếm 34,4%); khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản thu hút 332,2 nghìn tỷ đồng (chỉ chiếm 1%) [2, tr. 31-32]. Do đó, Nhà nước cần phải có những giải pháp để tăng quy mô đầu tư vào nông nghiệp, đặc biệt là từ nguồn ngân sách nhà nước; cải thiện môi trường đầu tư, chính sách pháp luật, chính sách ưu đãi để thu hút vốn đầu tư từ tư nhân và nguồn vốn FDI vào nông nghiệp; đồng thời tăng cường đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, để thu hút vốn đầu tư, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành nông nghiệp. Chính sách thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp cần tập trung vào các hướng chính là: - Để tăng nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp thì trước hết Nhà nước cần phải tăng mức đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước cho nông nghiệp một cách tương xứng và đáp ứng được nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất trong ngành nông nghiệp; đồng thời cần phải xác định rõ các hướng ưu tiên đầu tư vốn ngân sách cho các ngành sản xuất nông - lâm - thủy sản phù hợp với định hướng xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, tập trung và chất lượng cao, tránh đầu tư dàn trải, kém hiệu quả nguồn lực của Nhà nước. - Cần mở rộng các hoạt động xúc tiến đầu tư với nước ngoài, đặc biệt là với các nước có thế mạnh về phát triển nông nghiệp như Trung Quốc, Thái Lan, Israel,; tạo cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt về thuế, lao động, cơ sở hạ tầng, đơn giản hóa thủ tục hành chính để thu hút và hướng các nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và nguồn vốn FDI để phát triển nông nghiệp, các ngành công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ sản xuất nông nghiệp như: công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất cho nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản, dịch vụ pháp lý, dịch vụ vận tải, dịch vụ thương mại, - Cần xây dựng, thành lập các quỹ đầu tư của cả nhà nước và tư nhân hoạt động với mô hình xã hội hóa nhằm mục đích phi lợi nhuận để hỗ trợ phát triển nông nghiệp, đặc biệt là hỗ trợ các hoạt động khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng và giá trị xuất khẩu cho hàng hóa nông sản của Việt Nam. Thứ ba, về đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ trong nông nghiệp Phát triển nông nghiệp bền vững - kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam 62 Muốn tăng năng suất lao động, cải thiện chất lượng và hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, vấn đề cốt lõi bên cạnh việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thì việc tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất nông nghiệp là giải pháp mang tính đột phá, là khâu then chốt để đẩy nhanh, đẩy mạnh hơn nữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước cần phải có cơ chế, chính sách để đẩy mạnh và tăng cường đầu tư vào công tác nghiên cứu và phát triển (R&D). Ngoài nguồn vốn đầu tư của nhà nước cho hoạt động R&D, cần phải thành lập và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm để tăng nguồn kinh phí đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất cho người nông dân; hình thành và cải thiện chất lượng của các tổ chức nghiên cứu khoa học phục vụ cho nông nghiệp; tập trung nguồn lực đầu tư nghiên cứu, giải quyết các vấn đề quan trọng bức thiết của ngành nông nghiệp; thúc đẩy việc ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất nông nghiệp để đáp ứng các tiêu chuẩn trong nước và quốc tế trong các hoạt động sản xuất, quản lý nông nghiệp. Thứ tư, về phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp Biến đổi khí hậu đang đặt ra những thách thức to lớn với mọi quốc gia trên thế giới, nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Theo đánh giá của Liên Hợp Quốc, Việt Nam là một trong số 5 quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Với nền nông nghiệp còn chịu nhiều ảnh hưởng từ tự nhiên, Việt Nam cần chủ động, thường xuyên đánh giá và dự báo các tác động của biến đổi khí hậu, để kịp thời có những giải pháp hỗ trợ ngành nông nghiệp phát triển bền vững. Có thể thấy trong những năm vừa qua biến đổi khí hậu ở nước ta diễn biến một cách phức tạp, khó lường. Chẳng hạn như năm 2017 là năm có số lượng các cơn bão nhiều bất thường với tổng cộng 16 cơn bão đã ảnh hưởng đến nước ta, gây ra thiệt hại khoảng 38,7 nghìn tỷ đồng, tương đương 2,7 tỷ USD; hay như vấn đề xâm nhập mặn, hạn hán khốc liệt ở Đồng bằng song Cửu Long, Tây Nguyên, Duyên hải Nam Trung Bộ, đã ảnh hưởng và tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng. Trong bối cảnh đó, sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam luôn đối mặt với những rủi ro rất lớn do biến đổi khí hậu mang lại, không chỉ ảnh hưởng đến quá trình sản xuất nông nghiệp mà còn ảnh hưởng đến thu nhập của người nông dân. Do vậy, để đảm bảo đời sống cho người nông dân, giúp cho họ có khả năng chống chịu khi phải đối mặt với rủi ro do thiên tai và thảm họa gây ra thì việc thiết lập và phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp là một trong những phương thức hiệu quả nhất. Bảo hiểm nông nghiệp sẽ là trụ đỡ, là công cụ tài chính gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, bảo vệ và chia sẻ rủi ro đối với người nông dân. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 3 (2020) 63 Ở Việt Nam, bảo hiểm nông nghiệp đã được triển khai từ rất sớm (1982), song cho đến nay bảo hiểm nông nghiệp chỉ chiếm một tỉ trọng rất nhỏ trong thị trường bảo hiểm phi nhân thọ: chiếm 0,069 % năm 2004, khoảng 0,008 % năm 2005, gần 0,012 % năm 2006 và 0,01 %/năm cho giai đoạn 2007 – 2010 [1, tr. 218]. Từ năm 2011 đến năm 2013, chương trình bảo hiểm nông nghiệp được triển khai thực hiện thí điểm trên cây lúa, vật nuôi (trâu, bò, lợn, gia cầm) và thủy sản (cá tra, tôm sú, tôm chân trắng) ở 21 địa phương trên cả nước. Tuy nhiên, có rất ít các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp và người nông dân tham gia. Thực tế này cho thấy, hệ thống bảo hiểm nông nghiệp chưa đóng góp được nhiều cho nền nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Khó khăn lớn nhất trong việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay là do nhận thức chưa đúng và chưa đầy đủ của người nông dân về vai trò và tác dụng của bảo hiểm nông nghiệp; chi phí mua bảo hiểm còn cao so với khả năng chi trả của người nông dân; các doanh nghiệp bảo hiểm nông nghiệp đứng trước rủi ro và nguy cơ thua lỗ nên không mặn mà đầu tư vào bảo hiểm nông nghiệp, Vì vậy, để có thể giải được bài toán bảo hiểm nông nghiệp, biến bảo hiểm nông nghiệp trở thành công cụ hữu hiệu giúp phát triển nông nghiệp bền vững và đảm bảo thu nhập cho người nông dân thì Nhà nước cần thiết lập khung chính sách pháp lý rõ ràng, minh bạch, tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm nông nghiệp. Nhà nước và cả hệ thống chính trị cần đẩy mạnh tuyên truyền để giúp cho người nông dân hiểu được vài trò và tầm quan trọng của bảo hiểm nông nghiệp; xây dựng cơ chế, hỗ trợ nguồn kinh phí từ ngân sách cho các doanh nghiệp tham gia thị trường bảo hiểm nông nghiệp, cũng như trợ giá một phần phí bảo hiểm để giúp cho người nông dân có đủ nguồn lực tài chính để mua bảo hiểm nông nghiệp. Việt Nam là nước nông nghiệp nên cần nghiên cứu thành lập một cơ quan của nhà nước phụ trách về vấn đề bảo hiểm nông nghiệp như ở Israel. Cơ quan này sẽ chịu trách nhiệm quản lý ngân sách được cấp từ nhà nước, kêu gọi và thu hút các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, xây dựng các chương trình bảo hiểm nông nghiệp, thiết kế các công cụ tài chính để hỗ trợ chi phí mua bảo hiểm cho người nông dân và quan trọng nhất là cơ quan này phải có đầy đủ các công cụ chính sách trong việc đảm bảo các công ty bảo hiểm đánh giá đúng mức độ thiệt hại, đơn giản hóa các thủ tục bồi thường và chi trả mức bồi thường thiệt hại bằng tiền mặt cho người nông dân tối thiểu ở mức từ 60 – 90 % của sản lượng trung bình. 3. KẾT LUẬN Đúc rút kinh nghiệm thực tiễn trong phát triển nông nghiệp bền vững của một số quốc gia trên thế giới, có thể thấy rằng phát triển nền nông nghiệp bền vững theo hướng sản xuất hàng hóa lớn với năng suất, chất lượng, hiệu quả và có khả năng cạnh Phát triển nông nghiệp bền vững - kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam 64 tranh cao trên thị trường trong nước và thế giới là hướng đi đúng cho tất cả mọi quốc gia trên thế giới; đồng thời phát triển nông nghiệp bền vững cũng chính là lời giải cho bài toán những khó khăn, thách thức đang đặt ra của nền nông nghiệp Việt Nam hiện nay. Phát triển nông nghiệp bền vững là xu thế tất yếu khách quan của Việt Nam không chỉ trong hiện tại mà cả ở tương lai, để đảm bảo thực hiện mục tiêu kép là hoàn thành quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp, phát triển một nền nông nghiệp hiện đại dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ cao và nền sản xuất lớn; đồng thời đẩy nhanh tốc độ phát triển và giá trị gia tăng của ngành nông nghiệp để không ngừng nâng cao thu nhập và đời sống của người nông dân. Nông nghiệp Việt Nam hiện đang phải đối mặt với rất nhiều hạn chế, thách thức do quá trình đô thị hóa, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, điều đó càng đòi hỏi chúng ta cần phải đẩy nhanh hơn nữa quá trình hoàn thiện khung chính sách pháp lý, xây dựng các cơ chế hỗ trợ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp gắn với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái để đạt mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 3 (2020) 65 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Phạm Thị Thanh Bình (Chủ biên) (2018). Nghiên cứu so sánh chính sách nông nghiệp ở Trung Quốc, Thái Lan, Israel và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. [2] Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019). Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2019, Nxb Thống kê, Hà Nội. [3] Bộ Khoa học và Công nghệ, Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (2019). Tổng luận số 7/2019: Chính sách phát triển nông nghiệp bền vững của một số quốc gia và một số khuyến nghị cho Việt Nam trong bối cảnh mới. [4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội [5] FAO (2010). Climate – Smart Agriculture: Policies, Practices and Mitigation, Rome. [6] Phạm Thị Khanh (Chủ biên) (2010). Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [7] Serey Mardy, Nguyễn Phúc Thọ, Chu Thị Kim Loan (2013). Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về phát triển nông nghiệp bền vững và những bài học cho phát triển nông nghiệm ở Campuchia, Tạp chí Khoa học và Phát triển, tập 11, số 3. [8] Nguyễn Chí Mỳ, Hoàng Xuân Nghĩa (2015). Bốn hướng đột phá chính sách nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong giai đoạn hiện nay, Website: https://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/97 (Truy cập ngày 19/9/2020) [9] Trần Thùy Phương (2013). Chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Israel, Website: nam-2013/chinh- sach-phat-trien-nong-nghiep-cong-nghe-cao-o-israel-phan-1-789. html (Truy cập ngày 19/9/2020). [10] Tổng cục Thống kê (2020). Niên giám Thống kê 2019, Nxb Thống kê, Hà Nội. [11] Reuters (2018). Diện tích đất nông nghiệp của Trung Quốc giảm năm thứ 4 liên tiếp trong năm 2017, Website: Quoc-giam-nam-thu-4-lien-tiep-trong-nam-2017 (Truy cập ngày 19/9/2020) [12] Anh Quân (2020). Nông nghiệp – “Trụ đỡ của nền kinh tế Thái Lan”, Website: 727736.html (Truy cập ngày 19/9/2020) [13] vi.wikipedia.org. Nông nghiệp Israel, Website: https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%B4ng_nghi%E1%BB%87p_Israel (Truy cập ngày 19/9/2020) Phát triển nông nghiệp bền vững - kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam 66 SUSTAINABLE DEVELOPMENT FOR AGRICULTURE – EXPERIENCE FROM SOME COUNTRIES AND LESSONS FOR VIETNAM Phung The Anh University of Sciences, Hue University Email: anhpt@hcmute.edu.vn ABTRACT Several serious problems of the contemporary world such as the overpopulation, urbanization, environmental pollution, and climate change have challenged the agriculture all over the world. Getting the national agriculture developed sustainably is an obvious trend for every country, particularly for those which have used agriculture as the primary foundation for economic development. The sustainable development can help ensure an increase in productivity, food security, social security, and environmental pollution reduction. For such a developing country like Vietnam with over 70% of the population living in the countryside and using agriculture as a starting basis for industrialization and modernization, it is very important and necessary to learn from the successful stories of other countries like China, Thailand, and Israel. Keywords: Agriculture, sustainable development, Vietnam. Phùng Thế Anh sinh ngày 12/6/1982 tại Quảng Trị. Ông tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2005, tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2010 tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TPHCM; từ năm 2015 đến nay, ông là nghiên cứu sinh ngành Lịch sử Việt Nam, trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. Hiện nay ông là giảng viên tại trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM. Lĩnh vực nghiên cứu: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
File đính kèm:
- phat_trien_nong_nghiep_ben_vung_kinh_nghiem_cua_mot_so_nuoc.pdf