Phân tầng xã hội dựa trên nghề ở Nam Bộ từ thập niên 2000 đến nay
Bài viết sử dụng bốn bộ dữ liệu điều tra mức sống dân cư (VHLSS) 2006, 2010,
2014 và 2018 để phân tích phân tầng xã hội dựa trên nghề ở Nam Bộ. Kết quả
phân tích cho thấy, cơ cấu giai tầng ở Nam Bộ sau 12 năm vẫn mang đặc điểm
của một xã hội công nghiệp chưa hoàn thành với các nhóm nghề thuộc tầng
dưới trong tháp phân tầng chiếm tỷ lệ khá cao ở hầu hết các năm, còn các nhóm
nghề thuộc tầng trên và tầng giữa chiếm tỷ lệ tương đối thấp. Cơ cấu giai tầng
dựa trên nghề ở nông thôn và đô thị có sự khác biệt khá lớn, trong đó ở khu vực
đô thị tháp phân tầng có hình quả trám ở hầu hết các năm khảo sát, thể hiện
một xã hội công nghiệp phát triển, còn ở nông thôn tháp phân tầng vẫn mang
hình kim tự tháp với tầng dưới chiếm tỷ lệ tương đối cao, điều này cho thấy cơ
cấu xã hội ở nông thôn Nam Bộ vẫn mang dáng dấp của một xã hội nông nghiệp
chưa phát triển. Trong đó, ở hai thời điểm 2010 và 2014 tỷ lệ các nhóm nghề
thuộc tầng giữa trung và tầng giữa dưới đã giảm xuống khá rõ do ảnh hưởng
của khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tầng xã hội dựa trên nghề ở Nam Bộ từ thập niên 2000 đến nay
à chưa đủ để đưa cả vùng Nam Bộ trở thành một xã hội công nghiệp. Để hiểu sâu hơn các vấn đề này và xem có sự khác biệt nào giữa nông thôn - đô thị trong cơ cấu nghề nghiệp trong 12 năm (2006-2018), chúng tôi sẽ đi vào phân tích phân tầng xã hội dựa trên nghề ở nông thôn và đô thị trong phần dưới đây. 4.2. Sự khác biệt trong cơ cấu giai tầng nghề ở khu vực nông thôn và thành thị Khi phân tích về cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, nhiều nghiên cứu cho rằng có sự chênh lệch khá lớn giữa nông thôn và đô thị, không chỉ trong cơ cấu thu nhập, chi tiêu và tài sản của gia đình mà còn thể hiện ở trong cơ cấu nghề nghiệp của người dân ở những khu vực này. Những địa bàn có quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa cao thì ở đó cơ cấu nghề nghiệp của người lao động đa dạng hơn và có chiều hướng phát triển hơn, tức là những khu vực đó người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề tốt hơn. Ngược lại, ở khu vực nông thôn thì cơ cấu nghề nghiệp ít đa dạng, tỷ lệ người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật chiếm tỷ lệ thấp còn các nhóm nghề thuộc lao động giản đơn, không có tay nghề chiếm tỷ lệ khá cao (Văn Ngọc Lan và đồng nghiệp, 2001; Văn Ngọc Lan; 2009; Nguyễn Quới, 2007; Hà Thúc Dũng, 2009). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy có sự khác biệt khá lớn giữa nông thôn và đô thị trong cơ cấu xã hội dựa trên nghề. Trong đó, ở khu vực đô thị cơ cấu nghề của người lao động ở tất cả các năm đều có hình quả trám với những nhóm nghề thuộc tầng giữa (tầng giữa trên, tầng giữa trung và tầng giữa dưới) chiếm một tỷ lệ tương đối cao trong cơ cấu tầng nghề và tầng dưới chiếm hơn một tỷ lệ vừa phải và đang có xu hướng giảm dần. Ngược lại, khu vực nông thôn có nhiều biến chuyển trong cơ cấu nghề, nhưng vẫn mang dáng vẽ của một xã hội nông nghiệp chưa phát triển với các nhóm nghề thuộc tầng trên và tầng giữa (giữa trên, giữa trung và giữa dưới) còn chiếm một tỷ lệ tương đối thấp, còn các nhóm nghề thuộc tầng dưới (lao động giản đơn, lao động ít có tay TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 11 (267) 2020 24 nghề, nông dân bậc dưới) chiếm tỷ lệ cao xấp xỉ 50%. Trong khi đó các nhóm nghề thuộc tầng trên, tầng giữa tuy có biến đổi trong các thời điểm khảo sát nhưng tăng không đáng kể (xem Biểu đồ 1a, 1b). Các biểu đồ cho thấy, cơ cấu giai tầng nghề ở khu vực đô thị từ thập niên 2000 đến nay đều có hình thoi với các tầng nghề thuộc tầng giữa chiếm tỷ lệ khá cao. Điều này chứng tỏ cơ cấu giai tầng khu vực đô thị ở Nam Bộ đang có nhiều chuyển biến mạnh mẽ và dáng dấp của một xã hội công nghiệp. Kết quả cho thấy các nhóm nghề ở các giai tầng giữa trung và tầng giữa dưới tăng lên đáng kể và nhóm các nghề thuộc tầng dưới có xu hướng giảm dần. Cụ thể, các nhóm nghề thuộc tầng giữa dưới (công nhân, thợ có kỹ thuật, nông dân bậc trung thấp, chủ sở hữu phi nông nghiệp bậc thấp, quản lý nhà nước bậc thấp) chiếm tỷ lệ cao nhất trong 5 giai tầng ở khu vực đô thị và ít có sự biến động, cụ thể năm 2006 chiếm Biểu đồ 1b. Cơ cấu năm tầng nghề ở Nam Bộ theo nông thôn - đô thị năm 2014-2018 Nguồn: Tác giả xử lý từ số liệu điều tra mức sống dân cư các năm 2006, 2010, 2014 và 2018 của Tổng cục Thống kê Việt Nam. Biểu đồ 1a. Cơ cấu năm tầng nghề ở Nam Bộ chia theo nông thôn - đô thị năm 2006- 2010 Nguồn: Tác giả xử lý từ số liệu điều tra mức sống dân cư các năm 2006, 2010, 2014 và 2018 của Tổng cục Thống kê Việt Nam. HÀ THÚC DŨNG - TRẦN ĐAN TÂM – PHÂN TẦNG XÃ HỘI DỰA TRÊN 25 khoảng 39,1% và giảm nhẹ ở năm 2010 chiếm 38,6%, đến năm 2014 tăng lên 41,7% và năm 2018 chiếm 41,8%. Tiếp đến là tầng giữa trung thuộc các nhóm nghề có kỹ thuật và trình độ chuyên môn khá hơn (người lao động có kỹ thuật cao, nông dân bậc trung cao, chủ sở hữu phi nông nghiệp bậc trung thấp, quản lý nhà bậc trung thấp) ở đô thị năm 2006 chiếm khoảng 18,8%, năm 2010 chiếm 20,4% và 2014 chiếm 20,1%, năm 2018 chiếm 20,4%. Các nhóm nghề thuộc tầng dưới (nông dân bậc thấp, lao động ít kỹ năng, lao động giản đơn) đang có xu hướng giảm dần ở khu vực đô thị qua các thời kỳ được khảo sát, nếu như năm 2006 các nhóm nghề thuộc tầng dưới chiếm 29,1% đến năm 2010 giảm xuống còn chiếm 24, 2%, năm 2014 là 22,1% và năm 2018 là 23%. Đặc biệt, giai tầng thuộc đỉnh tháp là tầng trên ở khu vực đô thị có sự dịch chuyển tương đối lớn và đi theo hướng hình chữ U ngược, cụ thể năm 2006 thì tầng trên chiếm 2,4% đến năm 2010 tăng cao nhất chiếm 4,1%, năm 2014 tầng trên giảm nhẹ xuống 3,3%, đến năm 2018 còn lại 2,6%. Các nhóm nghề thuộc tầng giữa trên trong ba thời điểm năm 2006, 2010 và 2014 tăng lên lần lượt là 10,6% năm 2006, 12,6% năm 2010 và 12,8% năm 2014, nhưng đến 2018 giảm nhẹ còn 12,3%. Khác với nhóm nghề thuộc tầng giữa trên, các nhóm nghề thuộc giai tầng giữa trung ở khu vực đô thị trong giai đoạn từ 2010 đến 2018 không tăng, thậm chí còn giảm như năm 2010 chiếm khoảng 20,4% nhưng đến năm 2014 giảm còn 20,1% và năm 2018 tăng nhẹ 20,4%. Các nhóm nghề thuộc giai tầng giữa dưới tuy có tăng lên nhưng không đáng kể như năm 2010 chiếm khoảng 38,6% đến năm 2014 tăng lên 41,7% và 41,8% năm 2018. Như vậy, có thể nói, cơ cấu nghề nghiệp khu vực đô thị ở Nam Bộ từ đầu thập niên 2000 đến nay đã có nhiều chuyển biến và đang hình thành nên một cơ cấu xã hội công nghiệp tương đối phát triển. Trong đó các nghề đòi hỏi trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu nghề nghiệp ở khu vực này và các nhóm nghề thuộc tầng dưới chiếm tỷ lệ vừa phải và đang có xu hướng giảm dần qua từng thời điểm khảo sát. Ở khu vực nông thôn Nam Bộ, nghiên cứu cho thấy trong 12 năm (2006- 2018) tuy có nhiều biến đổi song ít nhiều vẫn mang đặc đểm của một xã hội nông nghiệp chưa phát triển. Điều này thể hiện khá rõ ở tầng lớp dưới chiếm một tỷ lệ cao trong cơ cấu giai tầng ở hầu hết các thời điểm khảo sát; trong năm 2006 tầng dưới ở khu vực nông thôn chiếm khoảng 49,6% đến năm 2010 tăng lên 51,0%, năm 2014 chiếm 54,1% và năm 2018 giảm xuống còn 46,1%. Tiếp đến là hai giai tầng thuộc tầng giữa trung và tầng giữa dưới chiếm một tỷ lệ tương đối và với xu hướng dịch chuyển lúc lên lúc xuống chứ không theo một chiều hướng nhất định. Cụ thể các nhóm nghề thuộc tầng giữa trung năm 2006 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 11 (267) 2020 26 chiếm khoảng 22,8% đến năm 2010 giảm xuống 17% và năm 2014 còn 16%, nhưng đến năm 2018 tăng lên 20,7%. Các nhóm nghề thuộc tầng giữa dưới, năm 2006 chiếm khoảng 22,4% đến năm 2010 tăng nhẹ 24,6%, năm 2014 giảm xuống 21,9% nhưng đến 2018 tăng lên 25,0%. Tuy nhiên, các giai tầng thuộc nhóm đỉnh lại có xu hướng tăng đều ở khu vực nông thôn trong vòng 12 năm qua. Trong đó tầng trên tăng khá nhanh, năm 2006 chiếm 1,7% đến năm 2010 khoảng 2,3%, năm 2014 chiếm 2,5% và năm 2018 là 2,7%. Tiếp đến các nhóm nghề thuộc tầng giữa trên, những nghề đòi hỏi có khả năng quản lý, có trình độ chuyên môn, có kỹ năng tay nghề, diện tích đất sản xuất tương đối lớn đang có xu hướng tăng lên ở khu vực nông thôn Nam Bộ. Năm 2006 giai tầng này chiếm khoảng 3,5% thì đến năm 2010 tăng lên 5,1%, năm 2014 là 5,4% và năm 2018 tăng cao nhất với 5,5%. Nếu nhìn trên tổng thể trong vòng 12 năm (2006-2018), thì các nhóm nghề thuộc tầng trên và tầng giữa trên tăng lên gần 1,5 lần. Như vậy, ở khu vực nông thôn Nam Bộ khi các nhóm nghề thuộc tầng trên và tầng giữa trên tăng nhanh, còn các nhóm nghề thuộc tầng dưới giảm rất ít cho thấy sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư có xu hướng ngày càng cao qua các thời điểm khảo sát. Từ các kết quả phân tích trên, có thể nói giữa khu vực nông thôn và đô thị ở Nam Bộ có sự khác biệt khá lớn trong cơ cấu xã hội dựa trên nghề. Trong đó, khu vực đô thị đang dần thể hiện rõ một cơ cấu xã hội công nghiệp với các giai tầng thuộc tầng giữa chiếm một tỷ lệ tương đối lớn và các nhóm nghề thuộc tầng dưới chiếm tỷ lệ vừa phải và có xu hướng giảm dần qua các năm. Ngược lại ở khu vực nông thôn cơ cấu xã hội vẫn mang sắc thái của một xã hội nông nghiệp chưa phát triển với các nhóm nghề thuộc tầng trên, tầng giữa chiếm tỷ lệ tương đối thấp, còn các nhóm nghề thuộc tầng dưới còn chiếm tỷ lệ khá cao dao động trong khoảng trên dưới 50%. Còn khu vực đô thị tuy cơ cấu các giai tầng có biến đổi khá đều và cân bằng giữa các nhóm theo các năm, ngược lại ở khu vực nông thôn thì các nhóm nghề thuộc tầng trên và tầng giữa trên có chiều hướng tăng lên nhưng các nhóm nghề thuộc tầng giữa trung, giữa dưới và tầng dưới ít có sự thay đổi. Như vậy phải chăng ở khu vực nông thôn Nam Bộ tình trạng phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội dựa trên nghề diễn ra mạnh hơn so với khu vực đô thị, nên tỷ lệ các nhóm nghề thuộc hai giai tầng ở đỉnh tháp phân tầng có xu hướng tăng qua các năm, còn các nhóm nghề thuộc tầng dưới tuy có giảm nhưng không đáng kể. 5. KẾT LUẬN Từ những kết quả nghiên cứu trên, có thể đưa ra một số kết luận liên quan đến cơ cấu và sự dịch chuyển cơ cấu giai tầng nghề của vùng Nam Bộ đầu thập niên 2000 đến nay. HÀ THÚC DŨNG - TRẦN ĐAN TÂM – PHÂN TẦNG XÃ HỘI DỰA TRÊN 27 Thứ nhất, sự phân tầng xã hội dựa trên nghề ở Nam Bộ từ 2006-2018 diễn ra khá nhanh và tương đối tích cực, trong đó các nhóm nghề thuộc giai tầng trên và tầng giữa tăng dần lên và các nhóm nghề thuộc tầng dưới giảm khá nhanh. Tuy nhiên, cơ cấu giai tầng ở Nam Bộ sau 12 năm vẫn mang đặc điểm của một xã hội công nghiệp chưa hoàn thành với các nhóm nghề thuộc tầng dưới trong tháp phân tầng chiếm tỷ lệ khá cao ở hầu hết các năm. Bên cạnh đó dù nguồn dữ liệu không đủ dữ liệu để chứng minh, nhưng khi liên kết một số nghiên cứu khác cho thấy, cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng đến cơ cấu xã hội của khu vực Nam Bộ ở thời điểm 2010 và 2014 khá rõ nét. Trong đó các nhóm nghề thuộc giai tầng giữa trung và giữa dưới (những nghề đòi hỏi trình độ chuyên môn, thợ kỹ thuật) không những không tăng mà còn giảm xuống ở hai thời điểm này. Thứ hai, giữa nông thôn và đô thị có sự khác biệt khá rõ nét trong cơ cấu xã hội ở hầu hết các thời điểm khảo sát. Trong đó tháp giai tầng nghề ở khu vực đô thị ở Nam Bộ trong thời điểm 2006, 2010, 2014 và 2018 đều mang hình dáng quả trám, điều này thể hiện cơ cấu của một xã hội công nghiệp phát triển. Tuy nhiên, giữa các thời điểm khảo sát có sự biến động khá lớn, trong đó các nghề thuộc ba giai tầng giữa (giữa trên, giữa trung và giữa dưới) chịu ảnh hưởng khá nhiều từ cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu. Vì vậy, tỷ lệ các giai tầng này giảm xuống trong năm 2010 và 2014, sau đó tăng trở lại trong năm 2018. Cơ cấu giai tầng ở khu vực nông thôn Nam Bộ có những biến chuyển tích cực trong 12 năm, nhưng vẫn mang đặc trưng của một xã hội nông nghiệp tiểu nông. Trong đó các nghề thuộc giai tầng dưới vẫn chiếm một tỷ lệ cao trong tháp phân tầng ở tất cả các năm, còn các nhóm nghề thuộc tầng giữa tuy có tăng nhẹ nhưng vẫn chiếm một tỷ lệ thấp, điều này chưa thể đáp ứng mong muốn của chính phủ cơ bản hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020. CHÚ THÍCH (*) Đây là sản phẩm của đề tài “Cơ cấu giai tầng xã hội vùng Đông Nam Bộ giai đoạn 2010- 2020” do Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam phê duyệt và tài trợ. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Bùi Thế Cường. 2015. Cơ cấu xã hội và chuyển dịch cơ cấu xã hội ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong thời kỳ 2010-2015. Đề tài cấp Nhà nước 2015. 2. Bùi Thế Cường. 2017. “Một phân loại giai tầng trung lưu Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam”. Tạp chí Xã hội học. Số 3(139)/2017, tr. 43-51. 3. Đào Quang Bình. 2007. Chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở TPHCM. Luận văn Thạc sĩ. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 11 (267) 2020 28 4. Đỗ Thiên Kính. 2012. Hệ thống phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay (Qua những cuộc điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam 2002-2004-2006-2008). Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 5. Đỗ Thiên Kính. 2015. “Xu hướng biến đổi cấu trúc các tầng lớp xã hội ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong thời kỳ đổi mới”. Tạp chí Khoa học Xã hội TPHCM, số 4(200), tr. 29-40. 6. Grusky, David B. (editor). 2014. Social Stratification: Class, Race, and Gender in Sociological Perspective. Fourth Edition. Westview Press. 7. Hà Thúc Dũng. 2009. “Bất bình đẳng thu nhập của các nhóm dân cư trong quá trình đô thị hóa”. Tạp chí Khoa học Xã hội TPHCM. Số 6/2009. 8. Lê Thanh Sang. 2011. Biến đổi cơ cấu xã hội và phúc lợi cư dân Tây Nam Bộ. Đề tài cấp bộ do Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ chủ trì. 9. Nguyễn Quới. 2007. “Các loại hình kinh tế hộ trong mối tương quan với phân tầng xã hội”. trong Trung tâm Nghiên cứu Xã hội học. Những nghiên cứu xã hội học trong thời kỳ chuyển đổi. Nxb. Khoa học Xã hội. 10. Nguyễn Văn Tạo. 2012. “Việt Nam trước khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu”. Tạp chí Tài chính. 7/4/2012. http//tapchitaichinh.vn, truy cập ngày 15/4/2020. 11. Nhàn Đàm. 2016. “Mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 không đạt: kết thúc một mơ ước duy ý chí”. Một thế giới, ngày 13/4/2016. https://motthegioi.vn/kinh- te-c-67/muc-tieu-tro-thanh-nuoc-cong-nghiep-vao-nam-2020-khong-dat-ket-thuc-mot- mo-uoc-duy-y-chi-29346.html, truy cập ngày 23/3/2020. 12. Như Quỳnh. 2018. “Việt Nam sẽ như thế nào nếu khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra? ” Tạp chí Tài chính, ngày 6/6/2018. http//tapchitaichinh.vn, truy cập ngày 15/4/2020. 13. Savage, Mike. 2016. “The Fall and Rise of Class Analysis in British Sociology, 1950- 2016”. Tempo Social, Revista de Sociologia da USP, Vol. 28, No. 2, pp. 57-72. 14. Tổng cục Thống kê Việt Nam. 2006, 2010, 2014, 018. Bộ số liệu điều tra mức sống dân cư (VHLSS) file data số liệu. Tổng cục Thống kê. 15. Trần Hữu Quang. 2018. “Land Accumulation in the Mekong Delta of Vietnam: a Question revisited”. Canadian Journal of Development Studies, Vol. 39, No. 2, pp. 199- 214. DOI: 10.1080/02255189.2017.1345722. 16. Tư Giang. 2019a. Để Việt Nam mơ giấc mơ “hóa rồng, hóa hổ”. VietnamNet. https://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/de-viet-nam-mo-giac-mo-hoa-rong-hoa-ho- 583638.html, truy cập ngày 25/3/2020. 17.Tư Giang. 2019b. Khi nào hoàn thành giấc mơ công nghiệp hóa. VietnamNet. https://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/tieudiem/khi-nao-hoan-thanh-giac-mo-cong- nghiep-hoa-588013.html, truy cập ngày 10/4/2020. 18. Văn Thị Ngọc Lan và đồng nghiệp. 2001. Phân tầng xã hội và thực trạng người nghèo ở nông thôn – qua nghiên cứu ở Long An và Quảng Ngãi. Báo cáo đề tài cấp Viện. 19. Văn Thị Ngọc Lan. 2007. Cộng đồng cư dân ngoại thành TPHCM trong quá trình đô thị hóa. Luận án Tiến sĩ.
File đính kèm:
- phan_tang_xa_hoi_dua_tren_nghe_o_nam_bo_tu_thap_nien_2000_de.pdf