Những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp về các chính sách và thủ tục hành chính thuế - Thực trạng và giải pháp
Cải cách thủ tục hành chính thuế (cải cách TTHC thuế), là một trong những nội dung quan trọng trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011-2020 Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đặc biệt quan tâm chỉ đạo, đẩy mạnh thực hiện. Đến nay, cải cách TTHC thuế đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần cải thiện môi trường đầu 1 được tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam phát triển. Điều này được thể hiện qua những đánh giá tích cực của các tổ chức trong nước và quốc tế, điển hình như Ngân hàng Thế giới (WB) thông qua đánh giá chỉ số “Nộp thuế” đã ghi nhận, những cải cách trong lĩnh vực thuế của Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh từ năm 2014 đến nay2; hay Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng đánh giá nhóm TTHC thuế đứng đầu trong 8 nhóm (gồm: khởi sự doanh nghiệp/đăng ký kinh doanh, thuế, đầu tư, giấy phép/chứng chỉ hành nghề, hải quan, đất đai, môi trường và xây dựng)3 về chi phí tuân thủ ít nhất (thời gian và tiền) mà doanh nghiệp phải chi trả để thực hiện thủ tục hành chính theo quy định hiện hành. Tuy nhiên, trên thực tế các doanh nghiệp vẫn đang gặp phải những vướng mắc, khó khăn khi thực hiện chính sách và TTHC thuế, làm tăng chi phí tuân thủ và ảnh hưởng tới tâm lý của doanh nghiệp và người nộp thuế
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp về các chính sách và thủ tục hành chính thuế - Thực trạng và giải pháp
ệp Việt Nam được Ngân hàng Thế giới đánh giá khá cao so với các quốc gia trong khu vực ASEAN với số lần thực hiện chỉ là 10 lần/năm, nhưng vẫn nhiều hơn của Singapore (5 lần/năm) và của Malaysia (8 lần/năm) (WB, Báo cáo DB 2019). 2.2. Gánh nặng thuế của doanh nghiệp Việt Nam là khá cao Gánh nặng thuế đối với doanh nghiệp Việt Nam nói chung và của doanh nghiệp hoạt động xuất, nhập khẩu nói riêng là khá cao, cũng đã ảnh hưởng tới xếp hạng môi trường kinh doanh, cũng như năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam. Có thể thấy điều này qua đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới và Ngân hàng Thế giới khi so sánh (một số chỉ số liên quan) Việt Nam với quốc gia trong khu vực ASEAN: (i) Chỉ số “Tổng thuế suất trên lợi nhuận” của Việt Nam bị Diễn đàn Kinh tế Thế giới đánh giá, xếp hạng khá thấp (hạng 76/137) với tổng thuế suất trên lợi nhuận khá cao, chiếm tới 39,45%, trong khi tổng thuế suất trên lợi nhuận của Singapore chỉ là 19,1% (xếp hạng 11/137), của Indonesia chỉ là 30,6% (xếp hạng 40/137) và của Thái Lan chỉ là 32,6% (xếp hạng 46/137) (WEF, Báo cáo GCI 2017-2018); Cũng chỉ số này, theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới “Thuế suất trên lợi nhuận” của Việt Nam là 37,8%, cao hơn so với Indonesia (30,1%), Thái Lan (29,5%), Singapore (20,6%) (WB, Báo cáo DB 2019); (ii) Chỉ số “Thuế quan thương mại trên tổng thuế” của Việt Nam cũng bị Diễn đàn Kinh tế Thế giới đánh giá tương đối thấp, chỉ đạt 45,9 điểm và xếp hạng 93/140 nền kinh tế, trong khi đó của Singapore là 99,8 điểm (xếp hạng 2/140, của Philipine là 70,8 điểm (xếp hạng 55/140), của Malaysia là 65,9 điểm (hạng 68/140), của Indonesia 6 APCI 2018 được xây dựng tập trung phản ánh 2 loại chi phí chủ yếu (mà doanh nghiệp phải chi trả khi thực hiện thủ tục hành chính, kể từ khi bắt đầu tìm hiểu về thủ tục cho đến khi hoàn tất) là: chi phí thời gian và chi phí trực tiếp (tiền). 11NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 138 - tháng 4/2019 là 60 điểm (hạng 77/140), và của Thái Lan là 46,2 điểm (hạng 92/140). (WEF, Báo cáo GCI 2018). 2.3. Chưa thực sự bình đẳng giữa các đối tượng doanh nghiệp (i) Giữa các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế khác nhau, cụ thể là doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân phải tiêu tốn thời gian cho các thủ tục thuế và hải quan nhiều hơn so với khu vực doanh nghiệp nhà nước: Có tới 34,1% doanh nghiệp khu vực tư nhân phản ánh phải bỏ ra trên 20% thời gian trong một tháng để giải quyết các thủ tục thuế và hải quan, trong khi con số này ở khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ là 14,7% (Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội). (ii) Giữa các doanh nghiệp ở các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Ví dụ, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe đồng thời phải gánh nhiều loại thuế với mức thuế suất ngang bằng với các ngành nghề áp thuế đặc biệt, gồm: Thuế tiêu thụ đặc biệt 30% (ngang bằng với các dịch vụ hàng hóa như karaoke, rượu bia, thuốc lá...); 10% thuế giá trị gia tăng và 20% thuế thu nhập doanh nghiệp... 2.4. Thủ tục hành chính Thuế vẫn là lĩnh vực trọng tâm cần tiếp tục cải thiện Mặc dù đã có nhiều cải thiện, nhưng thuế vẫn là một trong những lĩnh vực có TTHC cần kiên trì cải cách và tiếp tục là trọng tâm trong thời gian tới. Theo kết quả điều tra PCI của VCCI năm 2018, thuế là lĩnh vực có TTHC còn nhiều phiền hà đứng thứ hai trong số các lĩnh vực được khảo sát, và năm 2018 chưa có tín hiệu được cải thiện khi có cùng tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá của năm 2017 (28% doanh nghiệp), chỉ đứng sau lĩnh vực đất đai với 30% doanh nghiệp, và đứng trên nhiều lĩnh vực khác như bảo hiểm xã hội (25%), quản lý thị trường (16%), giao thông (15%) và xây dựng (14%). Cũng trong nghiên cứu này đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), thuế là lĩnh vực có TTHC phiền hà thứ ba với 25% doanh nghiệp đánh giá, chỉ đứng sau lĩnh vực hải quan (28%) và bảo hiểm xã hội (26%); đứng trên đăng ký đầu tư (24%)... 3. khó khăn của doanh nghiệp khi thực hiện chính sách và TTHC thuế Xuất phát từ những hạn chế của chính sách thuế và những nguyên nhân khác, doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc khi thực hiện chính sách và TTHC thuế. Trên cơ sở các phản ánh của cộng đồng doanh nghiệp thông qua khảo sát, phỏng vấn trực tiếp, văn bản doanh nghiệp phản hồi, ý kiến tại các tọa đàm/hội thảo, VCCI đã tổng hợp những khó khăn, vướng mắc chủ yếu gồm: 3.1. Khó khăn từ chính sách pháp luật thuế của Việt Nam (i) Chính sách thuế nói chung và TTHC thuế nói riêng của Việt Nam khá phức tạp, lại thay đổi tương đối nhanh, đi kèm là thay đổi các mẫu biểu khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc cập nhật và thực thi. Trong khi đó, việc trả lời các vướng mắc có liên quan từ doanh nghiệp của một số cơ quan thuế chưa kịp thời khiến doanh nghiệp phải tự tìm hiểu, dễ bị nhầm lẫn hoặc thực thi không chính xác, doanh nghiệp lại phải mất thời gian tới cơ quan thuế để điều chỉnh. (ii) Văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách thuế chậm ban hành, hoặc thiếu, hoặc không thống nhất khiến doanh nghiệp phải điều chỉnh nhiều nghiệp vụ kinh tế phát sinh như điều chỉnh hóa đơn, chứng từ, làm gia tăng chi phí, thời gian... Ví dụ điển hình như việc thực hiện hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ theo Nghị định 119/2018/NĐ- CP ngày 12/09/2018 của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 01/11/2018. Hiện tại Nhà nước chưa có Thông tư hướng dẫn cụ thể nên không chỉ doanh nghiệp mà cả cơ quan thuế cũng gặp khó khăn khi triển khai thực hiện; ngoài ra, các văn bản hướng dẫn về hóa đơn và hóa đơn điện tử còn mâu thuẫn trong quá trình thực hiện, khiến các doanh nghiệp không biết để thực hiện. (iii) Một số khó khăn, vướng mắc khác: Một là, vướng mắc thực hiện quy định về hóa đơn điện tử. Mặc dù việc sử dụng hóa đơn điện tử có thể tiết kiệm chi phí và thuận tiện trong việc quản lý nhưng khi doanh nghiệp áp dụng hóa đơn điện tử vẫn phải sử dụng hóa đơn giấy. Bởi khi doanh nghiệp vận chuyển hàng hóa trên đường, các cơ quan quản lý (cảnh sát giao thông, quản lý thị trường...) vẫn yêu cầu xuất trình hóa đơn giấy, điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp và ý nghĩa của việc ứng dụng hóa đơn điện tử bị vô hiệu. Liên quan tới vấn đề hóa đơn, thủ tục mua hoá đơn vẫn mất khá nhiều thời gian của doanh nghiệp. 12 VAI TROØ CUÛA KTNN TRONG COÂNG TAÙC QUAÛN LYÙ THUEÁ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 138 - tháng 4/2019 Hai là, cách tính và phương pháp xác định mức thuế khá phức tạp và khó hiểu. Ví dụ: Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác, chế biến khoáng sản, gia công kim loại và cả cơ quan hải quan chưa hiểu rõ phương pháp để xác định tỷ lệ giá trị khoáng sản và năng lượng trong tổng giá thành sản phẩm; tương tự, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cũng gặp khó khăn khi xác định số tiền thuế phải nộp. Cụ thể có doanh nghiệp đã hoàn thiện công trình, bàn giao lại cho cơ quan nhà nước và đã được đưa vào sử dụng nhưng chưa được tất toán. Cơ quan thuế hạch toán ghi nhận và yêu cầu doanh nghiệp nộp thuế, nếu không sẽ phạt nộp chậm thuế. Ba là, các điều kiện, thủ tục hoàn thuế giá trị gia tăng còn phức tạp gây khó khăn trong việc luân chuyển dòng tiền để tái đầu tư, sản xuất của doanh nghiệp. 3.2. Khó khăn do thiếu sự phối hợp giữa doanh nghiệp và cán bộ cơ quan thuế Hầu hết các doanh nghiệp khi thực hiện các TTHC thuế đều có những sai sót khi thực hiện lần đầu, tuy nhiên, việc nhận được hướng dẫn cụ thể từ cán bộ thuế là chưa nhiều (hầu hết nhận được sự hướng dẫn chung chung), khiến doanh nghiệp thường phải làm nhiều lần mới có thể hoàn thành, làm tăng chi phí khi thực hiện. Bên cạnh đó, như đã trình bày ở trên, những vướng mắc của doanh nghiệp liên quan tới thực hiện chính sách và TTHC thuế chưa nhận được những giải đáp kịp thời của cơ quan thuế, điển hình là về các vấn đề nợ thuế, thông báo nợ thuế và phạt nộp chậm thuế; có trường hợp doanh nghiệp không nắm được cơ quan Thuế đang ghi nhận tình hình khai và nộp thuế của doanh nghiệp ra sao, có phát sinh chậm nộp hay không, muốn biết phải làm công văn, nhưng phải có nguyên nhân tại sao làm công văn đó. Hoặc doanh nghiệp thường xuyên nhận được thông báo nợ thuế qua đường công văn, nhưng các thông báo lại không chính xác do hệ thống ghi nhận hạch toán sai, doanh nghiệp mất rất nhiều thời gian để liên lạc và giải trình nhưng không nhận được phản hồi kịp thời để xóa bỏ dư nợ thuế, chưa kể tới các công văn khi doanh nghiệp nhận được thường cách xa thời điểm ghi trên công văn nên bị động trong vấn đề giải trình với cơ quan Thuế. Mặc dù, các doanh nghiệp đã cảm nhận tốt hơn về sự thay đổi của chính sách và cải cách TTHC thuế, tuy nhiên, vẫn còn nhiều doanh nghiệp (nhất là doanh nghiệp nhỏ) phản ánh vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho doanh nghiệp của cán bộ ngành Thuế. 3.3. Khó khăn do năng lực của doanh nghiệp về thực hiện TTHC thuế Doanh nghiệp Việt Nam với khoảng 97% là doanh nghiệp vừa và nhỏ, năng lực hạch toán, kế toán của các doanh nghiệp này còn nhiều hạn chế, việc thực hiện kê khai thuế đúng quy định thường xảy ra những sai sót do vấn đề năng lực (nhưng không ít cơ quan Thuế lại cho rằng doanh nghiệp “cố tình” làm sai nên đã áp dụng những hình thức phạt doanh nghiệp). 3.4. Khó khăn thực hiện chính sách và TTHC thuế của hộ kinh doanh nếu chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp Theo quy định, thông thường các hộ kinh doanh (có doanh thu từ 100 triệu/năm trở lên) đang thực hiện nộp các thuế: Thuế môn bài (số tiền nộp thuế tùy theo mức doanh thu); thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế thu nhập cá nhân (TNCN) theo phương pháp khoán thuế, tỷ lệ nộp thuế quy định trên doanh thu bán hàng hóa và dịch vụ (trong khi, nếu là doanh nghiệp thì thực hiện nộp thuế theo phương pháp kê khai). Tuy nhiên, trên thực tế việc xác định doanh thu khoán chưa chính xác, cộng với công tác quản lý chưa tốt đã dẫn tới có sự chênh lệch khá lớn giữa doanh thu nộp thuế với doanh thu thực tế của các hộ kinh doanh (nhiều trường hợp nộp thuế khoán thấp hơn so với nộp thuế theo kê khai), đã tạo tâm lý cho các hộ kinh doanh không muốn chuyển đổi thành doanh nghiệp vì sợ thuế cao. Ngoài ra, chính sách thuế hiện hành của Việt Nam còn những hạn chế (như đã trình bày ở trên); thuế suất thu nhập doanh nghiệp (TNDN) áp dụng chung cho các doanh nghiệp, không phân biệt quy mô (theo khảo sát, nếu các hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp thường có quy mô siêu nhỏ); chưa có chính sách khuyến khích thuế đối với doanh nghiệp khởi nghiệp hoặc doanh nghiệp chuyển đổi từ hộ kinh doanh; doanh nghiệp phải tự kê khai, tự nộp thuế và chịu trách nhiệm trước pháp luật về số liệu kê khai, phải thực hiện quản lý 13NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 138 - tháng 4/2019 sổ sách kế toán, hóa đơn chứng từ theo quy định; bên cạnh đó, là vấn đề nhân lực am hiểu về kế toán, công nghệ thông tin khi thực hiện TTHC thuế... đều là những nguyên nhân khiến các hộ kinh doanh không muốn chuyển đổi thành mô hình doanh nghiệp. 4. kết luận và đề xuất Trong bối cảnh hội nhập kinh tế diễn ra ngày càng sâu rộng như hiện nay, cải cách thủ tục hành chính nói chung và TTHC thuế nói riêng phù hợp với thông lệ quốc tế đối với một quốc gia là tất yếu khách quan, và Việt Nam không là ngoại lệ. Thời gian qua, những kết quả tích cực từ cải cách chính sách và TTHC thuế đã góp phần cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam, đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp hoạt động, điều này đã được không chỉ các tổ chức/ doanh nghiệp trong nước mà cả quốc tế đánh giá, ghi nhận. Mặc dù vậy, chính sách thuế nói chung và TTHC thuế nói riêng của Việt Nam vẫn còn những hạn chế, bất cập khiến cộng đồng doanh nhiệp Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Để góp phần giảm bớt những khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp Việt Nam trong việc thực hiện chính sách và TTHC thuế, VCCI đề xuất, kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước về thuế một số nội dung như sau: - Đề xuất với Chính phủ, Nhà nước trong việc xây dựng chính sách thuế hiện đại, phù hợp với Hiến pháp Việt Nam và thông lệ quốc tế, công bằng, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện và lấy đối tượng nộp thuế làm trung tâm; - Tiếp tục rà soát, loại bỏ hoặc đơn giản hóa các TTHC thuế không thực sự cần thiết; nâng cao chất lượng thông tin và tăng tính công khai, minh bạch trong thực hiện TTHC thuế góp phần giúp doanh nghiệp Việt Nam giảm bớt các chi phí trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh; - Chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc giải quyết các vướng mắc của doanh nghiệp; đồng thời, có sự trao đổi, xử lý thông tin giúp cải cách TTHC, mang lại lợi ích cho người nộp thuế như: Phối hợp với cơ quan đăng ký kinh doanh giúp hồ sơ đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp được giải quyết nhanh chóng; phối hợp với cơ quan đăng ký đất đai giúp giảm thời gian đi lại và thời gian giải quyết hồ sơ của người có quyền sử dụng đất; trao đổi thông tin với cơ quan Hải quan, giúp doanh nghiệp loại bỏ tờ khai hải quan khi thực hiện đề nghị hoàn thuế; - Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin khi thực hiện TTHC thuế trong bối cảnh kinh tế số ngày càng phát triển, góp phần cải thiện chất lượng cung cấp dịch vụ hành chính công của Việt Nam và chất lượng hỗ trợ cho doanh nghiệp; - Tăng cường quan hệ đối tác doanh nghiệp - thuế, doanh nghiệp - hải quan, xây dựng cơ chế đối thoại các cấp trong cơ quan thuế nhằm giải quyết nhanh nhất những vướng mắc của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục hành chính thuế; - Quán triệt tới cán bộ toàn ngành Thuế tinh thần “lấy doanh nghiệp, người nộp thuế làm trung tâm và sự hài lòng của người nộp thuế là thước đo, là động lực của mình trong việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính thuế” để hướng tới mục tiêu cắt giảm chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp nộp thuế trong việc thực hiện thủ tục hành chính thuế từ khâu tra cứu, tiếp cận thông tin, đến lập hồ sơ, gửi và nhận kết quả. Trên đây là tổng quan một số nét liên quan đến thuế, chính sách thuế, những tồn tại, khó khăn khăn của doanh nghiệp của doanh nghiệp về chính sách TTHC thuế, một số giải pháp kiến nghị. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. World Bank, Doing Business report (from 2011-2008); 2. World Economic Forum, The Global Competitiveness Report (from 2011-2018); 3. The Heritage Foundation and The Wall review, 2017 & 2018 Index of Economic freedom; 4. Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng, Báo cáo Chỉ số đánh giá chi phí tuân thủ thủ tục hành chính năm 2018 (APCI 2018); 5. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Báo cáo chỉ số năng lực cấp tỉnh hàng năm (PCI).
File đính kèm:
- nhung_kho_khan_vuong_mac_cua_doanh_nghiep_ve_cac_chinh_sach.pdf