Nhu cầu về dịch vụ công tác xã hội của người bệnh nội trú tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm mô tả nhu cầu về dịch vụ công tác xã hội của bệnh nhân nội trú tại Bệnh
viện Hữu Nghị Việt Đức năm 2018.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng.
Nghiên cứu phát vấn với 420 bệnh nhân nội trú. Nghiên cứu thu thập số liệu tại 5 khoa: Chấn thương
chỉnh hình I, Ung bướu, Phẫu thuật thần kinh I, Phẫu thuật gan mật và Phẫu thuật tiết niệu trong thời
gian tháng 4-5/2018.
Kết quả: Kết quả nghiên cứu cho thấy, người bệnh có nhu cầu khác nhau về dịch vụ công tác xã hội,
trong đó: 81,9% người bệnh có nhu cầu cung cấp dịch vụ chỉ dẫn thông tin khám chữa bệnh, 68,6%
người bệnh có nhu cầu cung cấp thông tin giáo dục sức khỏe, 62,9% người bệnh có nhu cầu hỗ trợ tâm
lý, 55,5% người bệnh có nhu cầu kết nối nguồn lực và hỗ trợ từ thiện.
Kết luận: Một số khuyến nghị đã được đưa ra về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, truyền thông, và việc
giám sát triển khai dịch vụ công tác xã hội tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhu cầu về dịch vụ công tác xã hội của người bệnh nội trú tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức
m và cộng sự Thông tin chung Tần số (n) Tỷ lệ (%) Nhóm tuổi 18 tuổi - 26 tuổi 53 12,6 Trên 26 tuổi - 40 tuổi 93 22,1 Trên 40 tuổi - 55 tuổi 117 27,9 >55 tuổi 157 37,4 Giới tính Nam 250 59,5 Nữ 170 40,5 Nơi ở Thành thị 151 36,0 Nông thôn 269 64,0 Tình trạng hôn nhân Chưa lập gia đình 46 11,0 Đã kết hôn 347 82,6 Góa/ Ly hôn 27 6,4 Trình độ học vấn Không đi học 20 4,8 Tiểu học 61 14,5 Cấp II (THCS) 99 23,6 Cấp III (THPT) 94 22,4 Trung cấp, cao đẳng trở lên 146 34,8 Nghề nghiệp Làm công ăn lương 119 28,3 Chủ cơ sở sản xuất 26 6,2 Tự do 166 39,5 Ở nhà 56 13,3 Khác 53 12,6 Mức sống Giàu 2 0,5 Khá 139 33,1 Trung bình 240 57,1 Nghèo 5 1,2 Cận nghèo 34 8,1 Khác 23 5,5 Bảo hiểm y tế Có 335 79,8 Không 85 20,2 Mức độ chi trả của bảo hiểm y tế 40% 116 34,6 80% 140 41,8 95% 48 14,3 100% 31 9,3 30 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) Nhu cầu cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với người bệnh nội trú tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức Nhu cầu cung cấp dịch vụ chỉ dẫn, tư vấn thông tin chung về khám chữa bệnh Theo biểu đồ 1, tỷ lệ nhu cầu của người bệnh nội trú về hướng dẫn, hỗ trợ thủ tục/quy trình khám bệnh của người bệnh nội trú là cao nhất chiếm 91,9%. Tiếp sau đó, nhu cầu tư vấn chi phí điều trị và tư vấn chính sách bảo hiểm y tế cùng chiếm 90%. Nhu cầu chiếm tỷ lệ thấp hơn là hỗ trợ thủ tục chuyển cơ sở điều trị/ xuất viện (chiếm 89,8%), thấp nhất là nhu cầu về tư vấn trợ cấp xã hội cho người bệnh nội trú thuộc hộ nghèo 83,3%. Nhu cầu cung cấp dịch vụ truyền thông nâng cao nhận thức Biểu đồ 1. Tỷ lệ % nhu cầu của người bệnh nội trú về cung cấp dịch vụ chỉ dẫn, tư vấn thông tin chung về khám chữa bệnh Biểu đồ 2. Tỷ lệ % nhu cầu của người bệnh nội trú về nhu cầu cung cấp dịch vụ truyền thông nâng cao nhận thức Nguyễn Khắc Liêm và cộng sự 31 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) Biểu đồ 3. Tỷ lệ % nhu cầu của người bệnh nội trú về hỗ trợ tâm lý - xã hội Nguyễn Khắc Liêm và cộng sự Trong các nhu cầu cung cấp dịch vụ truyền thông nâng cao nhận thức của người bệnh thì nhu cầu được cung cấp thông tin, các quy định về khám chữa bệnh của bệnh viện là cao nhất chiếm 71,0%. Tiếp theo, nhu cầu được biết về hòm thư góp ý trong bệnh viện là 69,5%, nhu cầu được biết về quy tắc ứng xử tại bệnh viện chiếm 67,9%. Cuối cùng, chiếm tỷ lệ thấp nhất là nhu cầu được cung cấp các nội dung về phòng, chống bệnh (đang khám và điều trị), chiếm 60,3%. Nhu cầu hỗ trợ tâm lý – xã hội Về nhu cầu hỗ trợ tâm lý – xã hội của người bệnh thì tỷ lệ nhu cầu cung cấp thông tin mạng lưới hỗ trợ người bệnh là cao nhất chiếm 72,4%. Các nhu cầu khác chiếm tỷ lệ tương đối cao như: Tư vấn – Tham vấn tâm lý, trị liệu tâm lý (cùng chiếm 71,7%) và tư vấn giao tiếp xã hội (chiếm 67,9%). Tỷ lệ nhu cầu của người bệnh hỗ trợ tư vấn giao tiếp xã hội là thấp nhất chiếm 64,3%. Nhu cầu kết nối các nguồn lực và hỗ trợ từ thiện Thăm hỏi về tình 28,3 28,3 32,1 35,7 27,6 71,7 71,7 67,9 64,3 72,4 % trạng sức khỏe và hoàn cảnh khó khăn của gia đình Tư vấn - tham vấn tâm lý Trị liệu tâm lý Tư vấn giao tiếp xã hội Cung cấp thông tin mạng lưới hỗ trợ người bệnh. Có nhu cầu Không có nhu cầu 32 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) Biểu đồ 4. Tỷ lệ % nhu cầu kết nối nguồn lực và hỗ trợ từ thiện Biểu đồ 5. Tỷ lệ % nhu cầu người bệnh nội trú về dịch vụ CTXH Nguyễn Khắc Liêm và cộng sự Nhu cầu hỗ trợ chỗ ở cho người nhà trong thời gian chăm sóc là cao nhất chiếm 67,6%. Tiếp sau đó, là nhu cầu hỗ trợ chăm sóc của các tình nguyện viên (64,3%). Nhu cầu của người bệnh về cung cấp bữa ăn miễn phí là thấp nhất chiếm 56,2%. Một số nhu cầu khác chỉ chiếm tỷ lệ ở mức trung bình như: hỗ trợ tiền mặt chi dùng cho sinh hoạt phí, hỗ trợ tiền mặt thanh toán một phần chi phí điều trị, được tặng đồ dùng cá nhân (khoảng 60%). Nhu cầu cung cấp dịch vụ CTXH chung với người bệnh nội trú tại Bệnh viện Việt Đức Hỗ trợ tiền mặt thanh toán một phần chi phí điều trị % 41,4 40,2 42,1 43,8 32,4 35,7 58,6 59,8 57,9 56,2 67,6 64,3 Hỗ trợ tiền mặt chi dùng cho sinh hoạt phí Được tặng đồ dùng cá nhân Được cung cấp Có nhu cầu Không có nhu cầu bữa ăn miễn phí Hỗ trợ chỗ ở cho người nhà trong thời gian chăm sóc Hỗ trợ chăm sóc của các tình nguyện viên 55,5 62,9 68,6 81,9 44,5 37,1 31,4 18,2 Nhu cầu kết nối nguồn lực và hỗ trợ từ thiện Nhu cầu hỗ trợ tâm lý Nhu cầu cung cấp dịch vụ thông tin, kiến thức truyền thông giáo dục sức khoẻ Nhu cầu cung cấp dịch vụ chỉ dẫn, tư vấn thông tin chung về khám chữa bệnh % Có nhu cầu Không có nhu cầu 33 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) Theo biểu đồ 5, nhu cầu của người bệnh về cung cấp dịch vụ chỉ dẫn, tư vấn thông tin chung khám chữa bệnh là cao nhất chiếm 81,9%. Tỷ lệ các nhu cầu khác của người bệnh nội trú tương đối cao, trong khoảng từ 60 - 80%, bao gồm các nhu cầu: Nhu cầu về dịch vụ tư vấn thông tin điều trị bệnh, nhu cầu hỗ trợ tâm lý. Tỷ lệ nhu cầu của người bệnh về kết nối nguồn lực và hỗ trợ từ thiện là thấp nhất chiếm 55,5%. BÀN LUẬN Nhu cầu cung cấp dịch vụ chỉ dẫn thông tin chung về khám chữa bệnh Người bệnh cần được ưu tiên hỗ trợ, hướng dẫn thủ tục quy trình khám chữa bệnh. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của tác giả Phạm Tiến Nam và nhóm cộng sự (2017) là 86,1%. Đây cũng là nhu cầu chiếm tỷ lệ cao nhất của người bệnh ung thư tại bệnh viện K) (3). Ngoài ra, người bệnh tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức còn có nhu cầu: Hỗ trợ tư vấn chính sách bảo hiểm y tế và chi phí điều trị. Kết quả này có sự khác biết với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Bằng (2014). Nghiên cứu tác giả Nguyễn Văn Bằng, người bệnh ít có nhu cầu tư vấn về chi phí điều trị bệnh (5). Nghiên cứu có sự khác biệt bởi, kết quả nghiên cứu cho thấy người bệnh tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đa phần có bảo hiểm y tế, tuy nhiên, số lượng không nhỏ người bệnh chỉ có mức chi trả của bảo hiểm y tế là 40% (mức chi trả thấp). Nhu cầu cung cấp dịch vụ truyền thông nâng cao nhận thức Nghiên cứu cho thấy người bệnh cần được ưu tiên tư vấn hỗ trợ, cung cấp thông tin về các quy định khám chữa bệnh của bệnh viện. Điều này ngược lại với kết quả nghiên cứu của tác giả Phạm Tiến Nam và nhóm cộng sự – kết quả chỉ ra người bệnh cần nhất là được tư vấn về các nội dung phòng chống điều trị bệnh (84,4%) (3). Nguyên nhân do thực tế hiện nay, số lượng người bệnh đến khám và điều trị tại bệnh viện ngày một tăng cao, trong khi phần lớn người bệnh đến từ nông thôn. Chính vì vậy, tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, khả năng tiếp cận thông tin về các quy định khám chữa bệnh của những người bệnh sẽ không bằng người bệnh đến từ thành thị. Ngoài ra, trong nghiên cứu này, người bệnh có nhu cầu khá cao (trên 60%) về tất cả các tiêu chí của dịch vụ truyền thông nâng cao nhận thức. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với thực tế, bởi trong suốt quá trình khám/điều trị, thông tin về kiến thức, kỹ năng phòng chống/điều trị bệnh là những hành trang quan trọng đối với người bệnh và người nhà người bệnh. Nghiên cứu của các tác giả Lý Thị Hảo (6), Nguyễn Hà My (7) và Vũ Thị Thu Phương (8) cũng chỉ ra kết quả tương tự. Nhu cầu hỗ trợ tâm lý Tâm lý của người bệnh tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức tương đối phức tạp và có nhiều biến đổi trong suốt quá trình điều trị. Vì vậy, người bệnh cũng có nhu cầu được hỗ trợ về tâm lý. Trong đó, người bệnh mong muốn cao nhất được cung cấp thông tin mạng lưới hỗ trợ người bệnh. Điều này ngược lại với kết quả nghiên cứu của tác giả Phạm Tiến Nam và nhóm cộng sự (2017) tại bệnh viện K và kết quả của tác giả Lý Thị Hảo (2016) nghiên cứu về CTXH với bệnh nhân ung thư máu tại Viện Huyết học Truyền máu Trung ương (3, 6). Hai tác giả chỉ ra rằng, người bệnh cần nhất là được thăm hỏi về tình hình sức khỏe và hoàn cảnh khó khăn Nguyễn Khắc Liêm và cộng sự 34 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) của gia đình. Với kết quả nghiên cứu của tác giả Phạm Tiến Nam và nhóm cộng sự, nhu cầu này chiếm tỷ lệ là 86,1%, còn của tác giả Lý Thị Hảo, nhu cầu này có tỷ lệ dao động từ 70-90%. Có sự khác biệt này là do, phần lớn người bệnh trong nghiên cứu của hai tác giả đến từ đến từ nông thôn – nơi có hệ thống cơ sở y tế tuyến địa phương chưa thực sự tốt và mạng lưới hỗ trợ người bệnh nội trú còn lỏng lẻo. Bên cạnh đó trình độ học vấn của người bệnh chủ yếu là trung cấp và cao đẳng trở lên. Điều này cũng có nghĩa, họ có khả năng tiếp cận nhiều thông tin chuyên sâu hơn về bệnh, thông tin về mạng lưới hỗ trợ người bệnh hơn so với những nhóm người bệnh có trình độ dân trí thấp hơn tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Nhu cầu kết nối các nguồn lực và hỗ trợ từ thiện Kết quả nghiên cứu cho thấy người bệnh cần được ưu tiên hỗ trợ chỗ ở cho người nhà trong thời gian chăm sóc và hỗ trợ chăm sóc của các tình nguyện viên. Kết quả này tương tự một số nghiên cứu khác như nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Lâm (2013) chỉ rằng trên 80% người bệnh có nhu cầu hỗ trợ tiền điều trị, sinh hoạt phí và chỗ ở. Ngoài ra họ cũng có nhu cầu: cải thiện cơ sở vật chất của bệnh viện, tăng cường mối quan hệ giữa người chăm sóc và cán bộ bệnh viện, hỗ trợ các thêm thông tin về các mạng lưới giúp đỡ người bệnh (9). Kết quả này có sự chênh lệch với kết quả nghiên cứu của tác giả Phạm Tiến Nam và nhóm cộng sự, người bệnh cần nhất là được hỗ trợ tiền mặt chi dùng cho sinh hoạt phí (84,9%) và hỗ trợ tiền mặt thanh toán một phần chi phí điều trị (84,2%) (3). Nguyên nhân là do thứ nhất, bệnh viện Hữu nghị Việt Đức - nơi đây mỗi ngày đón tiếp hàng nghìn lượt người bệnh, người nhà người bệnh nội trú đến khám chữa bệnh. Chính vì vậy, số lượng người bệnh nội trú rất đông. Thứ hai, với phạm vi của nghiên cứu là tại 05 khoa: Chấn thương chỉnh hình I, Ung bướu, Phẫu thuật thần kinh I, Phẫu thuật gan mật, Phẫu thuật tiết niệu. Người bệnh tại các khoa này đa phần không thể tự mình tự chăm sóc bản thân. Họ rất cần có người hỗ trợ chăm sóc họ trong suốt quá trình điều trị bệnh. Chưa kể, người bệnh phần lớn đến từ nông thôn. Chính vì vậy, họ mong muốn người nhà của họ sẽ được hỗ trợ ít nhất là về chỗ ở hoặc sẽ có tình nguyện viên chăm sóc thay vì huy động người chăm sóc từ quê nhà để họ có thể yên tâm điều trị tại viện. Hạn chế của nghiên cứu: Nghiên cứu chỉ đánh giá nhu cầu của người bệnh nội trú tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức với quy mô nhỏ nên tính đại diện của nghiên cứu hạn chế về mặt phạm vi, không thể suy rộng từ kết quả nghiên cứu. Do điều kiện hạn chế nên nghiên cứu chỉ thực hiện được trên đối tượng người bệnh nhân nằm điều trị nội trú trên 3 ngày tại bệnh viện mà không thể tiến hành khảo sát ở người bệnh đã ra viện. KẾT LUẬN Nhu cầu về dịch vụ CTXH của người bệnh nội trú tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức ở các mức tỷ lệ khác nhau: 81,9% người bệnh có nhu cầu cung cấp dịch vụ chỉ dẫn, tư vấn thông tin chung về khám chữa bệnh, trong đó, người bệnh cần nhất là được hướng dẫn, hỗ trợ thủ tục/quy trình khám bệnh (91,9%); 68,6% người bệnh có nhu cầu cung cấp dịch vụ thông tin, kiến thức truyền thông giáo dục sức khỏe, trong đó, người bệnh cần nhất là được cung cấp các quy định về khám chữa bệnh của bệnh viện Nguyễn Khắc Liêm và cộng sự 35 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) (71%); 62,9% người bệnh có nhu cầu hỗ trợ tâm lý: bệnh nhân cần nhất là được hỗ trợ cung cấp thông tin mạng lưới hỗ trợ người bệnh nội trú (72,4%); 55,5% người bệnh có nhu cầu kết nối nguồn lực và hỗ trợ từ thiện: người bệnh cần nhất là được hỗ trợ chỗ ở cho người nhà trong thời gian chăm sóc (67,6%). KHUYẾN NGHỊ Một số khuyến nghị đưa ra đối với Phòng CTXH của bệnh viện: Đào tạo, nâng cao các kiến thức y học cho nhân viên công tác xã hội; tăng cường công tác đào tạo, cập nhật kiến thức chuyên sâu cho nhân viên của Phòng CTXH; tăng cường công tác giao lưu giữa phòng công tác xã hội và các khoa/phòng để triển mạng lưới CTXH tại bệnh viện; đẩy mạnh truyền thông đến bệnh nhân và người nhà bệnh nhân về dịch vụ CTXH tại bệnh viện; duy trì và phát triển các hoạt động sẵn có, như: hỗ trợ bệnh nhân nghèo, bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn thông qua hoạt động thiện nguyện. Lời cám ơn Nhóm nghiên cứu xin chân thành cám ơn sự hỗ trợ, hợp tác của lãnh đạo bệnh viện, nhân viên Phòng CTXH và người bệnh tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Whitaker T, Weismiller T, Clark E. Assuring the sufficiency of a frontline workforce: A national study of licensed social workers (Special report). Social work services in behavioral health care settings Retrieved from https://www socialworkers org/LinkClick aspx. 2006. 2. Bộ Y tế. Quyết định 2514/QĐ-BYT ngày 15/7/2011 về việc phê duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã hội trong ngành y tế giai đoạn 2011-2020. 2011. 3. Nam PT, Mai VTT, Đức DM, Hoàng LT, Quang CH, và cộng sự. Nhu cầu và khả năng cung cấp dịch vụ công tác xã hội cho bệnh nhân ung thư tại Bệnh viện K năm 2017. Báo cáo đề tài nghiên cứu cấp cơ sở. Hà Nội: Trường Đại học Y tế công cộng; 2017. 4. Thủ tướng Chính phủ. Quyết định số 59/2015/ QĐ-TTg ngày 19/11/2015 về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020. 5. Bằng NV, Châu NTM, Thanh NH, Hà NT. Nghiên cứu nhu cầu tư vấn của bệnh nhân bị bệnh lý ung thư nằm điều trị tại bệnh viện Quân y 103. 2014, 7/8/2018; Available from: http:// www.benhvien103.vn/vietnamese/bai-bao- y-hoc/nghien-cuu-nhu-cau-tu-van-cua-benh- nhan-bi-benh-ly-ung-thu/584/. 6. Hảo LT. Công tác xã hội đối với bệnh nhân bệnh máu từ thực tiễn Viện Huyết học – Truyền máu Trung Ương. Luận văn Thạc sĩ CTXH. Hà Nội: Học viện Khoa học xã hội; 2016. 7. My NH. Công tác xã hội cá nhân trong việc hỗ trợ nhu cầu tâm lý xã hội cho bệnh nhân sau chẩn đoán ung thư vú (nghiên cứu trường hợp tại bệnh viện Ung bướu Hà Nội). Luận văn Thạc sĩ. Hà Nội: Đại học Thăng Long; 2016. 8. Phương VTT. Công tác xã hội trong bệnh viện từ thực tiễn Trung tâm Hemophilia, Viện huyết học truyền máu Trung ương. Luận văn Thạc sĩ CTXH. Hà Nội: Học viện Khoa học xã hội; 2016. 9. Hiệp T. Tâm lý học xã hội những vấn đề lý luận. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội; 2006. Nguyễn Khắc Liêm và cộng sự
File đính kèm:
- nhu_cau_ve_dich_vu_cong_tac_xa_hoi_cua_nguoi_benh_noi_tru_ta.pdf