Nghiên cứu thử nghiệm trồng nấm bào ngư xám (Pleurotus sajor-caju (Fr.) Sing.) trên phụ phế phẩm cùi bắp, vỏ trấu và lục bình
Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá được hiệu quả sử dụng cùi bắp, vỏ trấu và lục bình để trồng nấm bào
ngư xám tại tỉnh Đồng Tháp. Thí nghiệm được bố trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 nghiệm thức ứng với 3 phụ phế phẩm thử nghiệm và 1 nghiệm thức đối chứng ứng với mùn cưa cao su, 3 lần lặp lại (10 bịch cơ chất/lần lặp lại). Hệ sợi nấm phát triển nhanh nhất (1,34 cm/ngày) và lan đầy bịch phôi sớm nhất (17 ngày ươm tơ) trên cơ chất vỏ trấu. Các bịch phôi của vỏ trấu cho thu hoạch nấm sớm nhất (25 ngày sau khi cấy cọng meo giống cấp 3) với năng suất nấm đạt cao nhất 308,7 g/bịch phôi và hiệu suất sinh học đạt 73,50% (735 kg nấm/tấn nguyên liệu khô). Do vậy, vỏ trấu rất giàu tiềm năng được tận dụng làm cơ chất thay thế mùn cưa cao su để trồng nấm bào ngư xám đạt hiệu quả cao ở tỉnh Đồng Tháp.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu thử nghiệm trồng nấm bào ngư xám (Pleurotus sajor-caju (Fr.) Sing.) trên phụ phế phẩm cùi bắp, vỏ trấu và lục bình
trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 nghiệm thức ứng với 3 phụ phế phẩm thử nghiệm và 1 nghiệm thức đối chứng ứng với mùn cưa cao su, 3 lần lặp lại (10 bịch cơ chất/lần lặp lại). Hệ sợi nấm phát triển nhanh nhất (1,34 cm/ngày) và lan đầy bịch phôi sớm nhất (17 ngày ươm tơ) trên cơ chất vỏ trấu. Các bịch phôi của vỏ trấu cho thu hoạch nấm sớm nhất (25 ngày sau khi cấy cọng meo giống cấp 3) với năng suất nấm đạt cao nhất 308,7 g/bịch phôi và hiệu suất sinh học đạt 73,50% (735 kg nấm/tấn nguyên liệu khô). Do vậy, vỏ trấu rất giàu tiềm năng được tận dụng làm cơ chất thay thế mùn cưa cao su để trồng nấm bào ngư xám đạt hiệu quả cao ở tỉnh Đồng Tháp. Từ khóa: Bào ngư xám, cùi bắp, vỏ trấu, lục bình. 1. MỞ ĐẦU1 Nấm bào ngư xám (Pleurotus sajor-caju (Fr.) Sing.) là loại nấm ăn phổ biến và mang lại nhiều giá trị ở các nước nhiệt đới. Đây là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng khá cao, cung cấp một lượng đáng kể chất đạm, carbohydrate, vitamin và khoáng chất, đồng thời là dược liệu quý giá trong việc duy trì, bảo vệ sức khỏe và cũng là nguồn hàng xuất khẩu có giá trị [1]. Nấm này được trồng chủ yếu trên cơ chất mùn cưa cao su [2], được thu mua từ các tỉnh miền Đông Nam bộ, nên giá thành tương đối cao và không chủ động nguồn nguyên liệu. Trong khi đó, cơ chất để trồng nấm bào ngư xám khá đa dạng như rơm rạ, vỏ trấu, cùi bắp, lục bình, bã mía, xơ dừa Ở tỉnh Đồng Tháp, các phế phụ phẩm cùi bắp, vỏ trấu và lục bình có trữ lượng rất dồi dào, rất dễ thu lấy, nhưng đa phần chưa được sử dụng hiệu quả gây lãng phí và ô nhiễm môi trường. Theo Tổng cục Thống kê (2018), đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trồng khoảng 33 nghìn ha bắp và 4.107,4 nghìn ha lúa [3]. Ước tính mỗi năm có hơn 372.000 tấn cùi bắp và 3,8 triệu tấn vỏ trấu phát thải ra môi trường [4]. Ở Đồng Tháp có hệ thống sông ngòi dày đặc với thực trạng lục bình phát triển rất mạnh trôi trên sông, kênh, rạch quá dày có thể gây tắc nghẽn dòng kênh, ô nhiễm môi trường, hạn chế sự 1 Khoa Sư phạm Lý - Hoá - Sinh, Trường Đại học Đồng Tháp Email: tdtuong@dthu.edu.vn sinh trưởng và phát triển của thủy hải sản, đồng thời gây khó khăn khi lưu thông đường thuỷ. Hiện nay, tuy lục bình đã được sử dụng để sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, làm thức ăn gia súc, phân bón nhưng vẫn còn một lượng khá lớn lục bình trôi nổi trên các kênh, rạch, gây ách tắc giao thông đường thủy. Sử dụng cây lục bình để trồng nấm có nhiều ưu điểm như rễ lục bình chứa nhiều dưỡng chất, lục bình khô giữ độ ẩm rất tốt nên có thể làm giảm chi phí tưới trong nuôi trồng. Xuất phát từ thực trạng nêu trên “Thử nghiệm trồng nấm bào ngư xám (Pleurotus sajor-caju (Fr.) Sing.) trên phụ phế phẩm sẵn có của tỉnh Đồng Tháp” là cơ sở khoa học để kỳ vọng không những mang lại sản phẩm có giá trị cao mà còn sử dụng hiệu quả những sản phẩm phế thải từ nông nghiệp, từ nguồn nguyên liệu sẵn có của địa phương thành nguồn phân bón hữu cơ, góp phần bảo vệ môi trường, tạo việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân địa phương. 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Vật liệu thí nghiệm Meo giống cấp 3 nấm bào ngư xám (Pleurotus sajor-caju (Fr.) Sing.) được cung cấp bởi Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh. Mùn cưa cao su, cám gạo, cùi bắp (giống Bắp nếp lai F1 HMT 55), vỏ trấu, lục bình được thu mua từ một hộ nông dân ở ấp Thạnh An, xã Tân Long, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp (Hình 1). KHOA HỌC CÔNG NGHỆ N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 2 - TH¸NG 11/2020 76 Hình 1. Các loại nguyên liệu sử dụng trong thí nghiệm cùi bắp (A), trấu (B), lục bình (C) và mùn cưa (D) 2.2. Phương pháp thí nghiệm Thí nghiệm được bố trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 nghiệm thức thử nghiệm (nấm được trồng trên cùi bắp, vỏ trấu, lục bình) và 1 nghiệm thức đối chứng (nấm được trồng trên mùn cưa cao su). Các nghiệm thức được bổ sung cùng một lượng 5% cám gạo, thí nghiệm được lặp lại 3 lần (10 bịch cơ chất/lần lặp lại) (Bảng 1). Bảng 1. Bố trí thí nghiệm Nghiệm thức (NT) Nguyên liệu Dinh dưỡng bổ sung 1 Cùi bắp nghiền 5% cám gạo 2 Vỏ trấu 5% cám gạo 3 Lục bình cắt khúc 5% cám gạo 4 Mùn cưa cao su 5% cám gạo Từng loại nguyên liệu (cùi bắp nghiền, vỏ trấu, lục bình cắt khúc, mùn cưa cao su) được trộn đều rồi tưới nước vôi trong (pH = 13) vào tạo thành đống ủ có độ ẩm < 65%. Dùng bạt đậy đống ủ để giữ ẩm, thỉnh thoảng đảo trộn đống ủ, ủ đống 3 - 7 ngày. Bổ sung thêm 5% cám gạo vào đống ủ, kiểm tra độ ẩm đống ủ, nếu thiếu ẩm cần bổ sung thêm ẩm bằng nước vôi trong đến khi đạt độ ẩm thích hợp (65%). Cơ chất đã ủ được phân phối đều vào các bịch nylon chịu nhiệt để tạo các bịch cơ chất nuôi trồng có khối lượng 1,2 kg (420 g cơ chất khô/bịch). Buộc cổ bịch, dùng que nhọn đường kính 1,5 - 2,0 cm xuyên vào miệng bịch, cách đáy bịch 1 cm nhằm tạo khoảng trống để cấy cọng meo giống nấm cấp 3 vào bịch, đậy miệng bịch bằng nút bông. Các bịch cơ chất được hấp khử trùng ở 100°C trong 10 - 12 giờ, để nguội và lần lượt cấy 1 cọng meo giống nấm cấp 3 vào từng bịch cơ chất trồng trong điều kiện vô trùng. Các bịch phôi này được chuyển vào nhà ươm để ươm tơ cho đến khi tơ nấm lan đầy các bịch phôi. Nhà ươm cần sạch sẽ, thông thoáng, mát, không cần ánh sáng. Khi tơ đã lan kín bịch phôi, chất lên kệ, tháo nút bông, sốc nhiệt, tưới đón nấm mỗi ngày. Nước tưới phải sạch, tưới phun sương 3 - 4 lần/ngày. Sau khoảng 5 - 7 ngày tưới, phôi nấm sẽ xuất hiện quả thể. Thu hoạch nấm lúc tai nấm ở dạng lá lục bình, tai nấm (quả thể nấm) được hái hết cả chùm, không được để sót lại phần chân nấm để tránh bị nhiễm tạp, ảnh hưởng đến những lần thu hoạch sau. Nhà trồng có mái lợp tole có cách nhiệt, vách tường được cách nhiệt bằng lưới lan, nền xi măng, có hệ thống tưới phun sương để duy trì nhà trồng ở 28 - 30°C [5], 80 - 90% độ ẩm [6] (nhiệt độ và ẩm độ được kiểm soát bằng thiết bị Thermo Hygro & Clockk, ISOLAB - Germany). Ánh sáng được duy trì ở 700 - 800 lux [7], độ thông thoáng vừa phải, không có gió lùa [8]. Tỷ lệ bịch phôi bị tạp nhiễm (%), tốc độ lan tơ (cm/ngày), thời gian tơ nấm lan đầy các bịch phôi (ngày), thời điểm bắt đầu cho thu hoạch quả thể nấm (ngày), năng suất nấm trên mỗi bịch phôi (g/bịch phôi) của 3 đợt thu hoạch (trong 30 ngày) và hiệu suất sinh học (%) của từng nghiệm thức được theo dõi và làm tiêu chí để đánh giá. Hiệu suất sinh học (%) = (Khối lượng nấm tươi/kg cơ chất khô) x 100. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 2 - TH¸NG 11/2020 77 2.3. Phân tích số liệu thí nghiệm Số liệu thí nghiệm được xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS Statistics 22.0 để so sánh giá trị trung bình giữa các nghiệm thức bằng phân tích One-Way ANOVA qua kiểm định Tukey với độ tin cậy 95% khi p < 0,05. Microsoft Excel 2013 được sử dụng để vẽ biểu đồ hình cột. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Sự phát triển của hệ sợi nấm trên 4 loại cơ chất Hình 2. Sự phát triển của hệ sợi nấm trên 4 loại cơ chất sau 17 ngày ươm tơ Hình 3. Tốc độ lan tơ nấm Ghi chú: Các giá trị trung bình trên biểu đồ hình cột có các ký tự đi cùng không giống nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Các thanh dọc (error bar) trên biểu đồ hình cột thể hiện độ lệch chuẩn của giá trị trung bình nghiệm thức. Hình 2 và 3 cho thấy tốc độ phát triển hệ sợi nấm trên các loại cơ chất khác nhau khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,005). Vỏ trấu là cơ chất giúp hệ sợi nấm phát triển nhanh nhất (1,34 cm/ngày) kế đến là lục bình (1,19 cm/ngày). Kết quả này tương quan với công bố của Lê Vĩnh Thúc và ctv. (2015) [9]. Tốc độ phát triển của hệ sợi nấm trên cùi bắp và mùn cưa cao su chậm hơn (0,79 - 0,69 cm/ngày) so với vỏ trấu và lục bình. Theo Frimpong-Manso et al. (2011) [10], vỏ trấu có tính xốp cao, độ thoáng khí nhiều, cấu trúc hạt rỗng là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ phát triển hệ sợi trên cơ chất, làm cho tơ nấm dễ phát triển xuyên qua cơ chất. Cùi bắp có hàm lượng dinh dưỡng khá cao là điều kiện thuận lợi cho hệ sợi nấm phát triển nhanh và khoẻ [11]. Tuy nhiên, do cùi bắp sử dụng trong thực nghiệm được nghiền nhuyễn với độ mịn khá cao nên thiếu sự thông thoáng trong bịch phôi làm ảnh hưởng đến tốc độ lan tơ chậm hơn so với vỏ trấu và lục bình. 3.2. Thời gian xuất hiện tơ nấm và thời điểm thu hoạch Các bịch phôi ở NT3 và NT2 xuất hiện tơ nấm sớm nhất (3 - 5 ngày sau khi cấy cọng meo giống cấp 3), cho thấy tơ nấm phát triển tốt trên cơ chất có tính xốp cao như vỏ trấu và lục bình. Tuy nhiên, hệ sợi giống phát triển trên cơ chất vỏ trấu của NT2 lan đầy các bịch phôi sớm nhất (17 ngày ươm tơ), khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với các nghiệm thức khác (Hình 4). Thời điểm bắt đầu cho thu hoạch quả thể nấm ở NT2 cũng đến sớm nhất (25 ngày sau khi cấy cọng meo giống cấp 3), khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với các nghiệm thức khác (Hình 4). Ghi nhận không có bịch phôi nào bị tạp nhiễm trên tất cả các nghiệm thức. Hình 4. Thời gian tơ nấm lan đầy bịch phôi và thời điểm bắt đầu thu hoạch nấm Ghi chú: Các giá trị trung bình của các cột trong cùng một giai đoạn có các ký tự đi cùng không giống nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Các thanh dọc (error bar) trên biểu đồ hình cột thể hiện độ lệch chuẩn của giá trị trung bình nghiệm thức. Năng suất nấm thu hoạch đạt lần lượt ở NT2 (308,7 g/bịch phôi), NT3 (296,7 g/bịch phôi), NT4 (276,9 g/bịch phôi) và NT1 (251 g/bịch phôi) với hiệu suất sinh học tương ứng là 73,50%; 70,64%; 65,93 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 2 - TH¸NG 11/2020 78 và 59,77%. Kết quả cho thấy hiệu quả trồng nấm bào ngư xám trên vỏ trấu đạt năng suất (308,7 g/bịch phôi) và hiệu suất sinh học (73,50%) cao nhất, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với trồng trên lục bình, cùi bắp và đối chứng mùn cưa cao su (Hình 5 và 6). Hình 5. Năng suất nấm thu hoạch Ghi chú: Các giá trị trung bình của các cột trong cùng một giai đoạn có các ký tự đi cùng không giống nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Các thanh dọc (error bar) trên biểu đồ hình cột thể hiện độ lệch chuẩn của giá trị trung bình nghiệm thức. Hình 6. Nấm bào ngư xám trồng trên cơ chất vỏ trấu (3 lần thu hoạch) Thực nghiệm cho thấy hiệu suất sinh học nấm trồng trên vỏ trấu (73,5%) cao hơn so với nấm trồng trên bã mía (39,90%), rơm (24,90%) và mụn dừa (11,00%) trong nghiên cứu của Lê Vĩnh Thúc và ctv. (2015) [9]. Năng suất nấm bào ngư xám trồng trên cơ chất vỏ trấu là cao nhất, nấm phát triển nhanh, cho thu hoạch sớm. Hơn nữa, nguồn nguyên liệu vỏ trấu ở đồng bằng sông Cửu Long rất dồi dào và không tốn nhiều công đoạn sơ chế như những cơ chất khác. Do vậy, vỏ trấu là nguyên liệu thích hợp nhất có thể được tận dụng để trồng nấm bào ngư xám và các nấm ăn khác, cần tiếp tục đưa vào ứng dụng thực tế sản xuất đại trà nấm bào ngư xám trên cơ chất vỏ trấu sẽ góp phần mở hướng đi mới cho sản xuất nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung cũng như ở tỉnh Đồng Tháp nói riêng. 4. KẾT LUẬN Nấm bào ngư xám trồng trên cơ chất vỏ trấu đạt năng suất 308,7 g/bịch phôi, cao hơn so với trồng trên lục bình là 296,7 g/bịch phôi, cùi bắp là 276,9 g/bịch phôi và cao hơn đối chứng là 251 g/bịch. Hiệu suất sinh học của nấm trồng trên cơ chất vỏ trấu đạt cao nhất 73,50% (735 kg nấm/tấn nguyên liệu khô). Vỏ trấu là nguyên liệu rất giàu tiềm năng được tận dụng để trồng nấm bào ngư xám đạt hiệu quả cao ở tỉnh Đồng Tháp. LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu này được hỗ trợ bởi đề tài mã số SPD2019.02.08 của Trường Đại học Đồng Tháp năm 2019. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Thái Hà và Đặng Mai, 2011. Bạn của nhà nông: Kỹ thuật trồng và chăm sóc một số loại nấm. Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội, trang 59-70. 2. Lê Duy Thắng, 2001. Kỹ thuật nuôi trồng nấm ăn, tập 1. Nhà xuất bản Nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. 3. Tổng cục Thống kê, 2018. Sản lượng, năng suất và diện tích trồng bắp, lúa ở đồng bằng sông Cửu Long. truy cập ngày 22/9/2019. 4. Viện Năng lượng Việt Nam, 2012. Nguồn năng lượng nào cho đồng bằng sông Cửu Long. luong-nao-cho-Dong-bang-song-Cuu-Long-111-136- 5916.aspx, truy cập ngày 31/03/2019. 5. Jo, W. S., M. J. Kang, S. Y. Choi, Y. B. Yoo, S. J. Seok, and H. Y. Yung, 2010. Culture conditions for mycelial growth of Coriolus versicolor. Mycobiology, 38, 3, 195-202. 6. Wang, Z., 2006. Rare mushroom cultivation. Edible and medicinal mushroom workshop. Shanghai Academy of Argiculture Sciences, China, pp. 45-61. 7. Trịnh Tam Kiệt, 2012. Nấm lớn ở Việt Nam, tập 2. Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội, 412 trang. 8. Oei, P., 2003. Mushroom cultivation, Backhuys publishers, Leiden, The Netherlands. 429 pp. 9. Lê Vĩnh Thúc, Mai Vũ Duy và Nguyễn Thị Ngọc Minh, 2015. So sánh một số loại cơ chất tiềm năng trồng nấm bào ngư xám (Pleurotus sajor-caju) ở KHOA HỌC CÔNG NGHỆ N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 2 - TH¸NG 11/2020 79 đồng bằng sông Cửu Long. Tạp ch́ Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ, 39, 36-43. 10. Frimpong-Manso, J., Obodai, M., Dzomeku, M. and Apertorgbor, M. M., 2011. Influence of rice husk on biological efficiency and nutrient content of Pleurotus ostreatus (Jacq. ex. Fr.) Kummer, International Food Research Journal, 18, 249-254. 11. Sánchez, C., Egüés I., García, A., Llano- Ponte, R. and Labidi, J., 2011. Corn stalk hydrolysis, BioResources, 2, 6, 1830-1842. STUDYING OF Pleurotus sajor-caju MUSHROOM CULTIVATION ON THE CORN COBS, RICE HUSK AND WATER HYACINTH Nguyen Thi Nguyet Binh, Nguyen Thi Nhu Ngoc, Tran Duc Tuong Email: tdtuong@dthu.edu.vn Summary The study aims to evaluate the effectiveness of using corn cobs, rice husk and water hyacinth to cultivate Pleurotus sajor-caju mushroom in Dong Thap province. The experiment was arranged in a completely randomized manner with three treatments of agricultural wastes and by-products and control treatment with rubber sawdust, three repetitions (10 bags/repetition). The mycelium grows fastest (1.34 cm/day) and fully spreads earliest of bags (17 days of incubation) on the rice husk. The bags of rice husk for the earliest mushroom harvest (25 days after inoculation) with the highest mushroom yield 308.7 g/bag and the biological efficiency of 73.50% (735 kg/ton of dry substrates). Therefore, rice husk have the potential to be utilize as alternate substrate for rubber sawdust to cultivate Pleurotus sajor-caju mushroom to achieve high efficiency in Dong Thap province. Keywords: Pleurotus sajor-caju, corn cobs, rice husk, water hyacinth. Người phản biện: PGS.TS. Khuất Hữu Trung Ngày nhận bài: 10/8/2020 Ngày thông qua phản biện: 11/9/2020 Ngày duyệt đăng: 18/9/2020
File đính kèm:
- nghien_cuu_thu_nghiem_trong_nam_bao_ngu_xam_pleurotus_sajor.pdf