Nghiên cứu tác động của chất lượng thông tin kế toán đến quá trình ra quyết định của doanh nghiệp Việt Nam
NBắc Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình với 177 bảng hỏi sử dụng được từ 265 phiếu được gửi tới các nhà ghiên cứu đã được thực hiện tại 77 DN sản xuất trên địa bàn các thành phố Hà Nội, Hải Dương,
quản trị (NQT) cấp cao và những người phụ trách công tác kế toán nhằm tìm hiểu tác động của các đặc
tính chất lượng thông tin kế toán (CLTTKT) đến quá trình ra quyết định của DN. Kết quả phân tích cho thấy
cả 4 đặc tính CLTTKT trong mô hình nghiên cứu đề xuất đều có tác động cùng chiều với quá trình ra quyết
định của DN với mức độ tác động lớn nhất là tính hiệu quả, tiếp đó là các đặc tính hữu hiệu, kịp thời, bảo
mật và toàn vẹn. Từ kết quả nghiên cứu này, tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị cần thiết nhằm nâng cao
CLTTKT, đáp ứng tốt hơn cho quá trình ra quyết định của các DN Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu tác động của chất lượng thông tin kế toán đến quá trình ra quyết định của doanh nghiệp Việt Nam
quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) các biến độc lập (Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả) !" #$" %&'(%& ') ! * +# ,-"./ 0"1"2,32 ''' '&4)& 56 758 4 9 +:$4 (' +:$9 %&& +:$ %( +:$ )( +:+9 %& +:+4 )& +:+ 4' +:+ '& ! + %% ! + %&4 ! +4 %'( +9 %4 +4 )' + '% + )% Bảng 7: Ma trận tương quan giữa các biến (**) Tương quan có ý nghĩa ở mức 0.01 Bảng 8: Đánh giá mức độ phù hợp của mô hình (Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả) !" # $ ?Kết quả phân tích hồi quy về các nhân tố đặc tính chất lượng thông tin kế toán tác động đến việc ra quyết định của DN như sau: Kết quả phân tích hồi quy ở bảng 10 cho thấy, cả 4 đặc tính CLTTKT, bao gồm: “Hữu hiệu”, “Hiệu quả”, “Kịp thời”, “Bảo mật và an toàn” đều có mối tương quan với “Quá trình ra quyết định của DN” và đều có ý nghĩa thống kê trong mô hình phân tích với sig. < 0.05. Hệ số phóng đại phương sai (Variance inflation factor - VIF) đều > 1 nên có thể kết luận là không có hiện tượng đa cộng tuyến giữa 4 nhân tố này. Phương trình hồi quy tuyến tính thể hiện mối quan hệ giữa việc ra quyết định của DN và các đặc tính CLTT kế toán được xây dựng như sau: MKD = 0.205 + 0.262EFC + 0.389 EFE + 0.158 TME + 0.148 SES Mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và 4 biến độc lập là thuận chiều với nhau vì hệ số Beta các biến độc lập đều > 0. Từ phương trình hồi quy trên, cho thấy: Yếu tố EFE (tính hiệu quả) của thông tin kế toán có ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình ra quyết định của DN với hệ số Beta là 0.389. Dấu dương của hệ số Beta có ý nghĩa là mối quan hệ giữa yếu tố tính hiệu quả (EFE) và quá trình ra quyết định của DN (MKD) là mối quan hệ cùng chiều, nghĩa là khi các yếu tố khác không thay đổi nếu tăng tính hiệu quả lên 1 đơn vị thì hiệu quả của quá trình ra quyết định của DN tăng lên 0.389 đơn vị. Giả thuyết H4 được chấp nhận đúng. Các yếu tố tiếp theo có mức độ ảnh hưởng đến việc ra quyết định của DN lần lượt là các đặc tính về “tính hữu hiệu” (EFC), “kịp thời” (TME), “bảo mật và an toàn” (SES) với hệ số Beta lần lượt là 0.262, 0.158 và 0.148. Khi các yếu tố này tăng lên 1 đơn vị, các yếu tố còn lại không thay đổi, hiệu quả việc ra quyết định của DN tăng lên lần lượt 0.262, 0.158 và 0.148. Với giá trị sig của các đặc tính CLTTKT trên là 0.000, 0.000 và 0.000 đều < 0.05, nghĩa là các giả thuyết H1, H2 và H3 đều được chấp nhận đúng. 7. Kết luận Thông tin kế toán cung cấp có chất lượng thì mới đảm bảo cho DN đưa ra những quyết định kịp thời, đúng thời điểm, phù hợp với mục tiêu hoạt động của DN và đem lại hiệu quả kinh tế nhất. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã phần nào giúp các DN nhận diện được vấn đề nên tập trung vào các đặc tính chất lượng nào của thông tin kế toán để thông tin kế toán cung cấp hữu ích hơn. Trong số 4 tiêu chuẩn đo lường CLT- TKT được đề cập thì “Hiệu quả” (Effectiveness) là đặc tính được đánh giá là có ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình ra quyết định của DN. Đây là đặc tính liên quan tới việc đảm bảo sử dụng các nguồn lực (con người, thiết bị, cơ sở hạ tầng, phần mềm...) trong quá trình thu thập, xử lý, tạ̣o thông tin nhằm đảm bảo hiệu quả và kinh tế nhất. Với kết quả này cho thấy trong các DN hiện nay, việc sử dụng các nguồn lực trong quá trình thu thập, xử lý, tạo thông tin, về mặt bằng chung, ở một mức độ nào đó là vấn đề được các DN quan tâm nhất và đã đáp ứng được yêu cầu của lãnh đạo DN trong việc cân đối giữa chi phí bỏ ra với những lợi ích mà thông tin kế toán mang lại. Các thuộc tính liên quan đến Hữu hiệu, Kịp thời, Bảo mật và an toàn cũng đều được đánh giá là có ảnh hưởng thuận chiều đến quá trình ra quyết định của DN. Tính hữu hiệu và tính kịp thời của thông tin kế toán được phản ánh ở các góc độ: đáng tin cậy, chính xác, trung thực, khách quan, đầy đủ, phù hợp, kịp thời Theo quy định của chuẩn mực và chế độ kế toán DN hiện hành, những khía cạnh được đề cập nói trên là những nguyên tắc, những yêu cầu cơ bản Số 142/202042 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học Bảng 9: Bảng mô tả giả thuyết nghiên cứu !" #$% % & '()*+,- )- .. & / ( ' Bảng 10: Kết quả mô hình hồi quy (Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả) ! " #$ " #%& '( )! & *&+ ,-./0 !"# trong kế toán, mà đặt trọng tâm cho KTTC, với chức năng cung cấp thông tin cho các đối tượng có liên quan về mặt lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp với DN thông qua hệ thống BCTC. Chúng tôi cho rằng, những yêu cầu này đang được kế toán các DN tuân thủ và đáp ứng ở mức tốt xuất phát từ thực tế hiện nay, kế toán tại các DN Việt Nam vẫn chủ yếu chú trọng đến việc cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài DN, đặc biệt là cơ quan Thuế, ngân hàng các nhà đầu tư. Đặc biệt đặt trong bối cảnh hội nhập sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam trên phạm vi khu vực và toàn cầu, với sự tham gia và là thành viên của các Tổ chức, Diễn đàn kinh tế, Hiệp định Kinh tế quốc tế (WTO, APEC, TTP, AEC) với quan hệ chặt chẽ và gắn bó các định chế tài chính quốc tế (ADB, WB, IMF), dẫn đến yêu cầu về tính tương thích và đồng bộ với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế về kế toán, quản trị và quản lý tài chính thì những yêu cầu đảm bảo tính tin cậy, chính xác, trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời đối với thông tin kế toán càng trở nên cấp thiết. Tính bảo mật và an toàn (SES) của thông tin kế toán được đánh giá là ít có ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của DN. Kết quả này cũng khá tương đồng với kết quả khảo sát đã công bố vào năm 2016 của Tạp chí Information Security (Mỹ). Theo đó, nhiều DN chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề bảo mật cơ sở dữ liệu, 33.7% trong số 597 ý kiến phản hồi đánh giá tầm quan trọng của việc bảo mật cơ sở dữ liệu là không cần thiết hoặc trung bình và chỉ có 11.9% đánh giá là rất quan trọng. Chính vì cho rằng đó là không thực sự cần thiết, các DN này đã không có sự đầu tư thích đáng đến vấn đề liên quan đến vấn đề kiểm soát và quyền truy cập thông tin, làm sao để thông tin, dữ liệu được lưu trữ an toàn, bảo mật. Và hệ quả là thông tin cung cấp không thể đáp ứng tốt được các yêu cầu liên quan đến tính bảo mật và an toàn. Trong bối cảnh chúng ta đang bước vào giai đoạn đầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, với nền tảng công nghệ số và sự phát triển mạnh mẽ, bùng nổ của mạng xã hội cùng với các phần mềm kế toán tiện ích, bên cạnh việc góp phần làm thay đổi toàn diện lĩnh vực kế toán thì cũng có mặt trái là đẩy các DN phải đối diện với nguy cơ mất an toàn thông tin. Để có thể đưa ra những quyết định kịp thời, xác đáng, hiệu quả và kinh tế, những vấn đề liên quan đến việc đảm bảo cho tính bảo mật và an toàn của thông tin quản lý nói chung, trong đó có thông tin kế toán cần được lãnh đạo các DN coi trọng hơn. Cũng trong khuôn khổ của nghiên cứu này, qua việc nghiên cứu tổng quan các tiêu chuẩn đo lường CLTTKT của các học giả và của các tổ chức nghề nghiệp uy tín trên thế giới, đối chiếu với các tiêu chuẩn của Việt Nam được đề cập trong VAS 01 - Chuẩn mực chung (ban hành năm 2002), chúng tôi nhận thấy mặc dù đã có sự tham khảo chuẩn mực kế toán quốc tế, nhưng đến thời điểm hiện tại, sau gần 20 năm ban hành chuẩn mực, những yêu cầu đó đang trở nên lạc hậu khi đặt trong bối cảnh mới. Sự thiếu cập nhật này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hội nhập kinh tế nói chung trong đó có sự hội tụ kế toán của Việt Nam với kế toán quốc tế trong xu hướng toàn cầu hóa. Vì vậy, một số đề xuất đối với các cơ quan quản lý Nhà nước là trong quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tài chính, kế toán, không thể bỏ qua việc sửa đổi và cập nhật các nội dung liên quan đến yêu cầu cơ bản đối với kế toán trên tinh thần của Đề án áp dụng Chuẩn mực BCTC quốc tế vào Việt Nam. Do hạn chế về thời gian và quy mô của mẫu khảo sát, nghiên cứu của chúng tôi chỉ dừng lại ở việc khảo sát sự đánh giá của các DN về mức độ tác động của 4 đặc tính chất lượng chủ yếu, đại diện cho 4 khía cảnh tiêu chuẩn của thông tin đến quá trình ra quyết đinh của DN Việt Nam trong thời kỳ CM Công nghiệp 4.0. Sự ảnh hưởng của các đặc tính chất lượng khác của TTKT đối với quá trình ra quyết định của DN sẽ được đề cập một cách đầy đủ, có hệ thống ở những nghiên cứu tiếp theo.u Tài liệu tham khảo: 1. Abdallah, Ahmad Adel Jamil, The impact of using accounting information systems on the quality of financial statements submitted to the Income and sales tax Department in Jordan, European Scientific Journal, ESJ 9.10 (2014). 2. Chúc Anh Tú (2015), Thông tin kế toán hữu ích trong điều kiện ứng dụng Công nghệ thông tin, Tạp chí Tài chính, số tháng 2/2015. 3. Đặng Văn Thanh (2019), Kế toán Việt Nam - Tương lai và triển vọng, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc tế : “Kế toán Việt Nam - Tương lai và triển vọng”. 4. Eppler, Martin J., and Dörte Wittig, Conceptualizing Information Quality: A Review of Information Quality Frameworks from the Last Ten Years, IQ 20.0 (2000). 5. Gacheru Faith, Effect of financial accounting information quality on decision making: A survey of public benefit organizations in Nairobi Country, Kenya, 2017. 6. Hall, James A, Accounting information sys- tems, Cengage Learning, 2012. 43 ? Số 142/2020 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học 7. Ionuț S. & Petec, D. (2015), The Importance of Accounting Information in Decision Making, Faculty of Economics and Business Administration, University of Craiova. 8. Ismail, Noor Azizi, and Malcolm King, Factors influencing the alignment of accounting information systems in small and medium sized Malaysian manufacturing firms, Journal of Information Systems and Small Business 1.1-2 (2014): 1-20. 9. Kariyawasam, Harendra, Relationship between Accounting Information and Decision Making in the Sri Lankan Manufacturing Sector, (2016). 10. Khalil, Omar EM, et al, Teaching information quality in information systems undergraduate educa- tion, Informing Science: The International Journal of an Emerging Transdiscipline 2(1999): 53-60. 11. Kahn, Beverly K., Diane M. Strong, and Richard Y. Wang, Information quality benchmarks: product and service performance, Communications of the ACM 45.4 (2002): 184-192. 12. Lee, Gemma, and Ronald W. Masulis, Seasoned equity offerings: Quality of accounting information and expected flotation costs, Journal of Financial Economics 92.3 (2009): 443-469. 13. Nguyễn Bích Liên (2008), Xác định và kiểm soát các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán trong môi trường ứng dụng hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP) tại các DN Việt Nam, Luận Án Tiến sĩ kinh tế Trường ĐH Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. 14. Nguyễn Thành Hưng, Vũ Quang Trọng (2013), Nâng cao vai trò của hệ thống thông tin kế toán với việc ra quyết định của nhà quản trị trong doanh nghiệp dịch vụ, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trường Đại học Thương mại. 15. Nguyễn Thành Hưng (2019), Hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí tại các DN viễn thông Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, số tháng 5/2019. 16. Nwaigburu, K. O., & Mark, B. U. (2014), The Use of Accounting Information in Decision Making for Sustainable Development in Nigeria: A Study of Selected Tertiary Institutions in Imo State, International Journal of Scientific, Research in Education, 7(2), 167-175 17. Phạm Đình Tuấn (2018), Ảnh hưởng từ cách mạng công nghiệp 4.0 đến thông tin kế toán trong doanh nghiệp, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, số tháng 3/2018. 18. Phan Minh Nguyệt và Nguyễn Thị Phước (2017), Xác định và đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chất lượng thông tin kế toán trình bày trên BCTC của các công ty niêm yết ở Việt Nam, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, số tháng 1+2/2017. 19. Rapina (2014), Factors Influencing The Quality Of Accounting Information System And Its Implications On The Quality Of Accounting Information. Sori, Zulkarnain Muhamad, Accounting infor- mation systems (AIS) and knowledge management: a case study, American Journal of scientific research 4.4 (2009): 36-44. 20. Trần Phước (2018), Mối quan hệ và các nhân tố tác động đến hệ thống thông tin kế toán đến hiệu quả kinh doanh của DN, Tạp chí Tài chính, số Tháng 8/2018. 21. Vũ Thị Thảo (2017), Nâng cao chất lượng thông tin kế toán trong thời kì hội nhập, Tạp chí Tài chính, số tháng 3/2017. 22. Xu, Hongjiang, Critical success factors for accounting information systems data quality, Diss. University of Southern Queensland, 2003. Summary The study was carried out in 77 manufacturing enterprises in Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh, Hải Phòng, and Ninh Bình with 177 usable question- naires out of 265 sent to senior managers and accounting professionals in order to investigate the impacts of accounting information quality features (AIQF) on the decision-making by the enterprises. An analysis reveals that all 4 AIQFs in the research model have positive influence on the decision-mak- ing by the enterprises with the most prominent fac- tor being efficiency followed by usefulness, then timeliness, security, and integrality, respectively. From the results, the researchers make several sug- gestions to improve AIQF in business, thus better meet the demand of decision-making in Vietnamese enterprises in the context of the Industrial Revolution 4.0 Số 142/202044 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học
File đính kèm:
- nghien_cuu_tac_dong_cua_chat_luong_thong_tin_ke_toan_den_qua.pdf