Nghiên cứu định lượng cacbon trong rừng ngập mặn ven biển xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh

Để đánh giá khả năng tạo bể chứa cacbon của rừng ngập mặn ven biển phục vụ quản lý

nhà nước về giảm phát thải khí nhà kính, cung cấp cơ sở khoa học và thông tin cho các chương

trình thực hiện cắt giảm khí nhà kính như REDD, REDD+, chúng tôi đánh giá khả năng tạo bể

chứa cacbon của rừng ngập mặn ven biển xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh với các

loài đặc trưng như vẹt dù (Bruguiera gymnorhiza), đâng (Rhizophora stylosa), trang (Kandelia

obovata), sú (Aegiceras corniculatum), mắm (Avicennia marina) thông qua 3 bể chứa cacbon của

rừng: (1) Bể chứa cacbon trong thực vật ở trên mặt đất; (2) Bể chứa cacbon trong thực vật ở dưới

mặt đất; (3) Bể chứa cacbon trong đất, dưới dạng cacbon hữu cơ theo hướng dẫn của IPCC (2006).

Kết quả nghiên cứu cho thấy, lượng cacbon tích lũy trong đất rừng cao hơn khoảng 5 lần lượng

cacbon tích lũy trong sinh khối thực vật trên mặt đất và dưới mặt đất của rừng. Lượng cacbon tích

lũy trong đất rừng trung bình là 124,85 tấn/ha; Lượng cacbon tích lũy trong sinh khối thực vật trên

mặt đất của rừng trung bình là 26,31 tấn/ha; Lượng cacbon tích lũy trong sinh khối thực vật dưới

mặt đất của rừng trung bình là 24,35 tấn/ha. Tổng lượng cacbon tích lũy thông qua 3 bể chứa

cacbon của đạt trung bình là 175,52 tấn/ha (tương ứng với lượng CO2 là 607,48 tấn/ha). Khả năng

tích lũy cacbon trong rừng cao là cơ sở khoa học để xây dựng và thực hiện các dự án trồng rừng

ngập mặn, kết hợp với bảo tồn, quản lý bền vững và tăng cường trữ lượng cacbon rừng trồng ở các

dải ven biển Việt Nam.

Nghiên cứu định lượng cacbon trong rừng ngập mặn ven biển xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh trang 1

Trang 1

Nghiên cứu định lượng cacbon trong rừng ngập mặn ven biển xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh trang 2

Trang 2

Nghiên cứu định lượng cacbon trong rừng ngập mặn ven biển xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh trang 3

Trang 3

Nghiên cứu định lượng cacbon trong rừng ngập mặn ven biển xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh trang 4

Trang 4

Nghiên cứu định lượng cacbon trong rừng ngập mặn ven biển xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh trang 5

Trang 5

Nghiên cứu định lượng cacbon trong rừng ngập mặn ven biển xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh trang 6

Trang 6

Nghiên cứu định lượng cacbon trong rừng ngập mặn ven biển xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh trang 7

Trang 7

Nghiên cứu định lượng cacbon trong rừng ngập mặn ven biển xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh trang 8

Trang 8

Nghiên cứu định lượng cacbon trong rừng ngập mặn ven biển xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh trang 9

Trang 9

Nghiên cứu định lượng cacbon trong rừng ngập mặn ven biển xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh trang 10

Trang 10

pdf 10 trang duykhanh 9000
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu định lượng cacbon trong rừng ngập mặn ven biển xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu định lượng cacbon trong rừng ngập mặn ven biển xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh

Nghiên cứu định lượng cacbon trong rừng ngập mặn ven biển xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh
rniculatum) có đường kính 
thân và chiều cao thấp hơn so với các loài cây 
ngập mặn khác (bảng 2), do đó tuyến 2 mặc dù 
có mật độ cao hơn so với tuyến 1 và tuyến 3, 
nhưng số lượng cây sú nhiều hơn các tuyến 
khác, do đó lượng cacbon trong sinh khối trên 
mặt đất thấp hown các tuyến khác. 
3.3. Lượng cacbon tích lũy trong sinh khối dưới 
mặt đất của rừng 
Sinh khối dưới mặt đất của cây bao gồm 
sinh khối của toàn bộ rễ cây. Kết quả nghiên 
cứu lượng cacbon tích lũy trong sinh khối dưới 
mặt đất của cây được thể hiện qua bảng 4. 
Tương tự như lượng cacbon tích lũy trong 
sinh khối trên mặt đất của rừng. Sinh khối dưới 
mặt đất của quần thể vẹt dù cao nhất đạt 19,04 
tấn/ha, tiếp đến là quần thể đước đạt 2,31 
tấn/ha, tiếp theo là quần thể sú đạt 2,14 tấn/ha, 
quần thể trang và mắm có lượng cacbon tích lũy 
trong sinh khối dưới mặt đất thấp nhất lần lượt 
là 0,45 tấn/ha và 0,42 tấn/ha. 
 So sánh khả năng tích lũy cacbon trong 
sinh khối dưới mặt đất của các tuyến nghiên 
cứu thu được kết quả như sau: tuyến 1 tích lũy 
cacbon dưới mặt đất lớn nhất với lượng cacbon 
tích lũy đạt 38,11 tấn/ha, tuyến 2 đạt 27,75 
tấn/ha và thấp nhất là tuyến 3 với 7,20 tấn/ha. 
Nguyên nhân có sự khác biệt này là do sự phân 
bố của các loài không đồng đều, đặc điểm sinh 
học của bộ rễ của từng loài là khác nhau. Theo 
kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Hạnh 
và cộng sự (2016) [3], lượng cacbon tích lũy 
trong sinh khối dưới mặt đất của quần thể trang 
cũng thấp hơn quần thể bần chua trong rừng 
trồng hỗn giao 2 loài trang và bần chua. Đồng 
thời, mật độ cũng là một trong những yếu tố 
ảnh hưởng đến lượng cacbon tích lũy trong sinh 
khối của rừng. 
So sánh lượng cacbon tích lũy trong sinh 
khối trên mặt đất (bảng 2) với lượng cacbon 
tích lũy trong sinh khối dưới mặt đất của rừng 
thấy, lượng cacbon tích lũy trong sinh khối trên 
mặt đất của rừng cao hơn lượng cacbon tích lũy 
trong sinh khối dưới mặt đất của rừng. Kết quả 
nghiên cứu này tương tự kết quả nghiên cứu 
của Nguyễn Thị Hồng Hạnh và cộng sự (2016) 
[5] khi nghiên cứu định lượng cacbon trong 
rừng ngập mặn trồng ven biển đồng bằng 
Bắc Bộ. 
3.4. Lượng cacbon tích lũy trong đất rừng 
Lượng cacbon (tấn/ha) tích lũy trong đất 
rừng có sự khác nhau giữa các tầng đất, lượng 
cacbon tích lũy cao ở lớp đất bề mặt và giảm ở 
các độ sâu khác nhau của đất (bảng 5). 
Bảng 4. Cacbon tích lũy trong sinh khối dưới mặt đất của rừng ngập mặn xã Hải Lạng, 
huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh 
Tuyến 
điều tra 
Cacbon tích lũy trong sinh khối dưới mặt đất (tấn/ha) 
Tổng cacbon 
tích lũy trong 
sinh khối dưới 
mặt đất (tấn/ha) Vẹt dù Sú Đâng Trang Mắm 
Tuyến 1 35,37 ± 1,12 2,19 ± 0,16 0,41 ± 0,01 0,14 0 38,11±17,25 
Tuyến 2 20,65 ± 1,44 3,88 ± 0,35 2,98 ± 0,49 0,24 ± 0,02 0 27,75±9,27 
Tuyến 3 1,09 ± 0,01 0,33 ± 0,07 3,54 ± 0,23 0,98 ± 0,11 1,26 ±0,02 7,20±1,23 
Trung binh 19,04 ± 13,03 2,14 ±1,75 2,31±1,52 0,45±0,43 0,42±0,63 24,35±18,14 
N.T.H. Hạnh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 3 (2018) 1-3 
7 
Bảng 5. Lượng cacbon tích lũy trong đất rừng ngập mặn xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh 
Tuyến 
điều tra 
Cacbon tích lũy (tấn/ha) trong các tầng đất 
Tổng cacbon 
tích lũy trong 
đất (0 – 100 
cm) (tấn/ha) 0-20cm 20-40cm 40-60cm 60-80cm 80-100cm 
Tuyến 1 37,96 ± 0,64 35,49 ± 0,83 24,19 ± 0,99 21,34 ± 0,75 15,77 ± 0,42 134,75 ± 3,63 
Tuyến 2 35,76 ± 0,74 29,08 ± 0,85 24,10 ± 1,44 18,65 ± 0,91 17,96 ± 0,72 125,56 ± 4,65 
Tuyến 3 28,04 ± 0,66 25,05 ± 0,76 23,83 ± 1,51 20,13 ± 1,05 17,25 ± 0,27 114,25 ± 4,26 
Trung bình 33,92±4,69 29,86±4,77 24,04±1,05 20,04±1,4 16,99±1,07 124,85±9,74 
Kết quả nghiên cứu trong bảng 4 cho thấy, 
lượng cacbon tích lũy chủ yếu ở lớp đất bề mặt 
0-20 cm, lượng cacbon tích lũy giữa các tuyến 
giao động trong khoảng (28,04 – 37,96) tấn/ha, 
lượng cacbon giảm dần ở các độ sâu tiếp theo, 
thấp nhất trong nghiên cứu này là lượng cacbon 
tích lũy trong đất ở độ sâu 80-100 cm với 
khoảng (15,77 – 17,96) tấn/ha. Sự tích lũy 
cacbon trong đất chủ yếu trên lớp đất bề mặt là 
do đất rừng ngập mặn luôn nhận được lượng 
cacbon từ lượng rơi (cành, lá,  rụng) của 
rừng, lượng cacbon từ phù sa của sông và lượng 
cacbon từ trầm tích mang đến nhờ thủy triều. 
Ngoài ra, đất rừng ngập mặn còn nhận được 
một lượng cacbon từ rễ của cây rừng. Lượng 
cacbon tích lũy trong đất giảm dần theo độ sâu 
của đất, tích lũy cao ở lớp đất bề mặt và giảm 
dần theo độ sâu của đất, nguyên nhân là do quá 
trình sunfat hóa các chất hữu cơ và hô hấp kỵ 
khí của đất (Nguyễn Thị Hồng Hạnh, 2009) [8]. 
Tổng lượng cacbon tích lũy trong đất 
(tấn/ha) ở tuyến 1 là cao nhất đạt 134,75 tấn/ha, 
tiếp theo là tuyến 2 đạt 125,56 tấn/ha, thấp nhất 
là tuyến 3 với 114,25 tấn/ha (hình 2). 
Tổng lượng cacbon tích lũy trong đất có sự 
khác nhau giữa các tuyến nghiên cứu, nguyên 
nhân là do mật độ của cây rừng tuyến 1 cao hơn 
so với mật độ của tuyến 2 và tuyến 3 (bảng 2), 
nhận định này phù hợp với kết quả nghiên cứu 
của Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2009) [8], 
Nguyễn Thị Hồng Hạnh và cộng sự (2016) [3]. 
Hình 2. Tổng lượng cacbon (tấn/ha) tích lũy trong đất (0 – 100) cm của rừng ngập mặn xã Hải Lạng, 
huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh. 
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 3 (2018) 1-3 
 8 
3.5. Tổng lượng cacbon tích lũy trong rừng 
ngập mặn xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh 
Quảng Ninh 
Từ kết quả nghiên cứu về lượng cacbon tích 
lũy trong sinh khối trên, dưới mặt đất của rừng 
(bảng 2, bảng 3) và lượng cacbon tích lũy trong 
đất rừng (bảng 4), theo hướng dẫn của IPCC 
(2006), đánh giá khả năng tạo bể chứa cacbon 
của rừng ngập mặn xã Hải Lạng, huyện tiên 
Yên, tỉnh Quảng Ninh thông qua 3 bể chứa 
cacbon như sau: 
Bảng 6. Tổng cacbon tích lũy trong rừng ngập mặn xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh 
Tuyến điều 
tra 
Lượng cacbon tích lũy (tấn/ha) Tổng cacbon 
tích lũy trong 
rừng ngập mặn 
(tấn/ha) 
Tổng CO2 hấp 
thụ tương ứng 
(tấn/ha) 
Trong sinh khối 
thực vật trên 
mặt đất 
Trong sinh khối 
thực vật dưới mặt 
đất 
Trong đất 
Tuyến 1 41,87 ±17,17 38,11 ±17,25 134,75±3,63 214,72 788,04 
Tuyến 2 27,54±9,66 27,75±9,27 125,56±4,65 180,85 553,72 
Tuyến 3 9,53±0,94 7,20±1,23 114,25±4,26 130,98 480,69 
Trung bình 26,31±18,44 24,35±18,14 124,85±9,74 175,52±38,13 607,48±114,39 
Kết quả nghiên cứu trong bảng 6 cho thấy, 
tuyến 1 có lượng cacbon tích lũy cao nhất là 
214,72 tấn/ha (tương ứng với lượng CO2 là 
788,04 tấn/ha), tiếp theo là tuyến 2 có lượng 
cacbon tích lũy là 180,85 tấn/ha (tương ứng với 
lượng CO2 là 553,72 tấn/ha) và thấp nhất là 
tuyến 3 có lượng cacbon tích lũy là 130,98 
tấn/ha (tương ứng với lượng CO2 là 480,69 
tấn/ha). 
So sánh lượng cacbon tích lũy trong 3 bể 
chứa cacbon thấy, lượng cacbon tích lũy trong 
đất rừng cao hơn so với lượng cacbon tích lũy 
trong sinh khối thực vật trên mặt đất và dưới 
mặt đất. Kết quả nghiên cứu này tương tự kết 
quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Hạnh 
(2009) [8], Fujimoto và cộng sự (2000) [9], 
Nguyễn Thị Hồng Hạnh và cộng sự (2016) [3]. 
Theo Albright (1976) [10], Fujimoto và cộng sự 
(2000) [9] cho rằng, sự tích lũy cacbon trong 
đất rừng ngập mặn là thuận lợi bởi sự phân hủy 
chậm các chất hữu cơ trong đất (chủ yếu là rễ), 
90 % lá bị phân hủy trong vòng gần 7 tháng 
nhưng 50 – 88 % mô rễ vẫn giữ được trong một 
năm, khi rễ bị chôn vùi trong đất thì tốc độ 
phân hủy rễ còn chậm hơn nữa. Hàm lượng 
cacbon tích lũy trong đất rừng ngập mặn khá 
cao (trung bình khoảng 97,57 tấn/ha) so với 
rừng mưa nhiệt đới (29,5 tấn/ha). Sở dĩ như vậy 
vì hầu hết lượng rơi thực vật trên sàn rừng mưa 
nhiệt đới đều được phân hủy nhanh chóng và 
tích lũy không nhiều trên sàn rừng, trong khi đó 
rừng ngập mặn với lượng trầm tích và ngập 
nước triều thường xuyên đã làm giảm hoặc 
chậm quá trình phân hủy lượng rơi xác thực vật. 
Lượng cacbon tích lũy phần lớn trong trầm tích 
của rừng. 
Như vậy, có thể nói đất rừng ngập mặn có 
khả năng tích lũy một lượng lớn cacbon, tạo bể 
chứa cacbon góp phần làm giảm khí thải gây 
hiệu ứng nhà kính. 
Như vậy, kết quả nghiên cứu định lượng 
cacbon trong rừng ngập mặn huyện Tiên Yên, 
tỉnh Quảng Ninh cho thấy, rừng ngập mặn lưu 
trữ cacbon trong sinh khối thực vật trên mặt đất, 
dưới mặt đất và trong đất rừng, đóng vai trò 
như một bể chứa CO2 - khí nhà kính. Kết quả 
nghiên cứu bước đầu cung cấp những thông tin 
và số liệu về khả năng tích lũy cacbon trong 
rừng ngập mặn tự nhiên, giúp nhà quản lý đưa 
ra những chiến lược phát triển, quản lý rừng 
ngập mặn và bảo vệ môi trường dựa trên cơ sở 
phát triển bền vững, đồng thời cung cấp cơ sở 
cho việc đàm phán quốc tế trong các chương 
trình thực hiện cắt giảm khí nhà kính. 
N.T.H. Hạnh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 3 (2018) 1-3 
9 
4. Kết luận 
1. Lượng cacbon tích lũy trong sinh khối 
thực vật trên mặt đất, dưới mặt đất của rừng 
ngập mặn xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh 
Quảng Ninh như sau: 
Lượng cacbon tích lũy trong sinh khối thực 
vật trên mặt đất của rừng trung bình là 
(26,31±18,44) tấn/ha. 
Lượng cacbon tích lũy trong sinh khối thực 
vật dưới mặt đất của rừng trung bình là 
(24,35±18,14) tấn/ha. 
2. Lượng cacbon tích lũy trong đất rừng 
trung bình là (124,85±9,74) tấn/ha. Lượng 
cacbon tích lũy trong đất rừng cao hơn khoảng 
5 lần lượng cacbon tích lũy trong sinh khối thực 
vật trên mặt đất và dưới mặt đất của rừng. 
3. Tổng lượng cacbon tích lũy thông qua 3 
bể chứa cacbon của rừng: (1) Bể chứa cacbon 
trong thực vật ở trên mặt đất; (2) Bể chứa 
cacbon trong thực vật ở dưới mặt đất; (3) Bể 
chứa cacbon trong đất đạt trung bình là 
(175,52±38,13) tấn/ha (tương ứng với lượng 
CO2 là (607,48±114,39) tấn/ha. Khả năng tích 
lũy cacbon trong rừng cao là cơ sở khoa học để 
xây dựng và thực hiện các dự án trồng rừng 
ngập mặn, kết hợp với bảo tồn, quản lý bền 
vững và tăng cường trữ lượng cacbon rừng 
trồng ở các dải ven biển Việt Nam. 
Lời cảm ơn 
Nghiên cứu được hoàn thành dưới sự hỗ trợ 
kinh phí của đề tài mã số TNMT.2018.05.06. 
Các tác giả xin trân trọng cảm ơn. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyen Thi Hong Hanh, Pham Hong Tinh, Mai 
Sy Tuan, 2016. Allometry and biomass 
accounting for mangroves Kandelia obovata 
Sheue, Liu & Yong and Sonneratia caseolaris (L.) 
Engler planted in coastal zone of red river delta, 
Vietnam, International Journal of Development 
Research Vol.06, Issue, 05 (2016): 7804-7808. 
[2] Komiyama A., Ong J.E., Poungparn S., 2008. 
Allometry, biomass, and productivity of 
mangrove forests: A review, Aquatic Botany, 89: 
128-137. 
[3] Nguyễn Thị Hồng Hạnh (Chủ nhiệm), Bùi Thị 
Thư, Nguyễn Thị Hoài Thương, Vũ Văn Doanh, 
Lê Đắc Trường, Hoàng Thị Huê, Lê Thu Thủy, 
Đinh Văn Thuận, Phạm Hồng Tính, Nguyễn Xuân 
Tùng, 2016. Nghiên cứu định lượng cacbon tích 
lũy để đánh giá khả năng tạo bể chứa cacbon của 
rừng ngập mặn ở vùng ven biển Đồng bằng Bắc 
Bộ, Đề tài Khoa học và Công nghệ cấp Bộ, mã số: 
TNMT.04.57/10-15. 
[4] IPCC, 2006. IPCC Guidelines for National 
Greenhouse Gas Inventories, Prepared by 
National Greenhouse Gas Inventories Programme, 
Eggleston H.S., Buendia L., Miwa K., Ngara T., 
Tanabe K., (eds). Published: IGES, Japan. 
[5] Lê Văn Khoa, Nguyễn Xuân Cự, Bùi Thị Ngọc 
Dung, Lê Đức, Trần Khắc Hiệp, Cái Văn Tranh, 
2000. Phương pháp phân tích đất, nước, phân bón, 
cây trồng. Nhà xuất bản Giáo dục: 71-74. 
[6] Nguyen Thanh Ha, Yoneda R., Ninomiya I., 
Harada K., Tan D. V., Tuan M. S., Hong P. N., 
2004. The effects of stand-age and inundation on 
the carbon accumulation in soil of mangrove 
plantation in Namdinh, northern Vietnam, The 
Japan society of tropical ecology, 14 (2004): 21-
37. 
[7] Kauffman J. B., & Donato D., 2012. Protocols for 
the measurement, monitorring and reporting of 
structure, biomass and carbon stocks in mangrove 
forests. Bogor, Indonesia: Center for International 
Forestry Research (CIFOR). 
[8] Nguyễn Thị Hồng Hạnh, 2009. Nghiên cứu khả 
năng tích lũy cacbon của rừng trang (Kandelia 
obovata Sheue, Liu & Yong) trồng ven biển 
huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Luận án tiến sĩ 
sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
[9] Fujimoto K., Miyagi T., Murofushi T., Adachi H., 
Komiyama A., Mochida Y., Ishihara S., 
Pramojanee P., Srisawatt W., Havanond S., 2000. 
“Evaluation of the belowground carbon 
sequestration of estuarine mangrove habitats, 
Southwestern Thailand”, In: Miyagi T. (ed.) 
Organic material and sea-level change in 
mangrove habitat, Tohoku-Gakuin University, 
Sendai, 980-8511, Japan, pp. 101-109. 
[10] Albright L.J., 1976. In situ degradation of 
mangrove tissues (Note), N. Z. Journal of Marine 
and Freshwater Research 10, pp. 385-389. 
N.T.H. Hạnh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 3 (2018) 1-3 
10 
Study on Quantification of Carbon Stock in Mangrove Forest 
along the Coast of Hai Lang Commune, Tien Yen District, 
Quang Ninh Province 
Nguyen Thi Hong Hanh1, Le Khanh Linh2, Pham Hong Tinh1, 
Le Dac Truong1, Bui Thi Thu1, Truong Minh Tam3 
1
Hanoi University of Natural Resources and Environment 
2
Department of Natural Resources and Environment, Moc Chau District 
3
General Department of Environment 
Abstract: In order to assess mangrove carbon sink for state management of greenhouse gas 
emissions/sequestration, provide a scientific and basis for implementing greenhouse gas reduction 
programs, e.g. REDD, REDD
+
, carbon stocks in three carbon pools, 1) above ground biomass, 2) 
below ground biomass and 3) soil were quantified for mangrove forest with dominant species of 
Rhizophora stylosa, Bruguiera gymnorhiza, Kandelia obovata, Aegiceras corniculatum, Avicennia 
marina in Hai Lang Commune, Tien Yen District, Quang Ninh Province, following the guideline by 
IPCC (2006). The results show that carbon accumulated in mangrove soil is about five times higher 
than the biomass carbon (above ground biomass and below ground biomass). The carbon accumolated 
in the soil was 124.85 tons/ha; the carbon accumulated in above ground biomass was 26.31 tons/ha; 
and the carbon accumulated in below ground biomass was 24.35 tons/ha. The total carbon stock in 
three carbon pools was 175.52 tonnes/ha (corresponding to 607.48 tons of CO2 sequestrated by one 
hectare of the mangroves). Large amount of carbon sequestrated in mangrove forest is a scientific 
basis for the development and implementation of mangrove afforestation projects, combined with 
conservation, sustainable management of mangroves, and the enhancement of mangrove carbon stocks 
in the coastal areas of Vietnam. 
Keywords: Avicennia marina, Aegiceras corniculatum, Bruguiera gymnorhiza, Kandelia obovata, 
Rhizophora stylosa, greenhouse gases, mangrove forest, carbon sequestration. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_dinh_luong_cacbon_trong_rung_ngap_man_ven_bien_xa.pdf