Mức độ áp dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp Việt Nam - Kết quả từ nghiên cứu thực nghiệm
Tóm tắt: Kế toán quản trị (KTQT) là nguồn thông tin quan trọng hỗ trợ cho các nhà quản trị
doanh nghiệp (DN) trong quá trình ra quyết định. Trên thế giới, KTQT đã có lịch sử hình
thành và phát triển hơn 100 năm. Tuy nhiên, ở Việt Nam KTQT trong các DN, KTQT còn
tương đối sơ khai, nhiều kỹ thuật KTQT hiện đại chưa được áp dụng. Bài viết cũng nghiên
cứu ảnh hưởng của một số yếu tố ngẫu nhiên đến mức độ áp dụng KTQT. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, mức độ phân quyền, mức độ áp dụng CNTT và trình độ nhân viên có ảnh hưởng
đáng kể đến mức độ áp dụng KTQT trong các DN.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Mức độ áp dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp Việt Nam - Kết quả từ nghiên cứu thực nghiệm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mức độ áp dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp Việt Nam - Kết quả từ nghiên cứu thực nghiệm
biến ở Việt Nam. 4.1.2. Sử dụng dự toán Dự toán là công cụ được sử dụng để lập kế hoạch, kiểm soát và đánh giá hoạt động trong các DN. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ và mức độ dự toán khá cao trong các DN xây n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 188 dựng và sản xuất. Ngược lại, trong các DN thương mại và dịch vụ tỷ lệ sử dụng dự toán khá thấp. Cụ thể trong các DN xây dựng, tỷ lệ lập dự toán đạt từ 46,1 trở lên. Tỷ lệ lập dự toán sản xuất đạt cao nhất (100,0%), thấp nhất là báo cáo tài chính dự toán (46,1%). Các dự toán tiêu thụ, dự toán mua vật tư và dự toán tiền lần lượt đạt tỷ lệ 52,8; 65,2 và 57,3%. Các DN sản xuất có tỷ lệ sử dụng dự toán đứng thứ hai sau các DN xây dựng. Tỷ lệ áp dụng cao nhất đối với dự toán mua vật tư (52,6%), thấp nhất vẫn là áp dụng báo cáo tài chính dự toán (43,4%). Các dự toán sản xuất, tiêu thụ, và dự toán tiền lần lượt đạt tỷ lệ 51,3; 44,7 và 51,3%. Đứng thứ ba về tỷ lệ lập dự toán là các DN đa ngành. Trong các DN này, dự toán mua vật tư có tỷ lệ áp dụng cao nhất (58,3%), báo cáo tài chính (BCTC) dự toán có tỷ lệ sử dụng thấp nhất (31,7%). Dự toán tiêu thụ đạt tỷ lệ 53,3%. Cả hai dự toán sản xuất và dự toán tiền đều đạt tỷ lệ 41,7%. Các DN dịch vụ có tỷ lệ sử dụng dự toán tiền đạt tỷ lệ cao nhất (65,4%). Dự toán sản xuất đạt tỷ lệ thấp nhất (15,4%). Các dự toán khác đạt tỷ lệ trên dưới 40% (38,5% đối với dự toán tiêu thụ, dự toán mua đạt 46,2% và BCTC dự toán đạt 42,3%) . Trong các DN thương mại, tỷ lệ sử dụng các loại dự toán khá thấp. Thấp nhất là tỷ lệ sử dụng dự toán sản xuất (6,2%). Các dự toán còn lại đạt tỷ lệ từ 38,1 (báo cáo tài chính dự toán) đến 48,5% (dự toán tiền). Các dự toán tiêu thụ và mua hàng hóa đạt tỷ lệ tương đương nhau (45,4 và 46,4%). Mức độ sử dụng các loại dự toán trong các DN đạt mức trung bình từ 3,12 đến 3,44 điểm. Dự toán mua hàng có mức sử dụng cao nhất là 3,44 điểm. báo cáo tài chính dự toán có mức sử dụng thấp nhất (3,12). Xét theo lĩnh vực hoạt động, các DN xây dựng có mức độ sử dụng dự toán cao nhất. Điểm trung bình sử dụng dự toán trong các DN này đạt từ 3,35 đến 4,37 điểm. Mức độ sử dụng dự toán trong các DN thương mại thấp hơn trung bình. Ngoài dự toán sản xuất ít được sử dụng, các dự toán khác cũng chỉ đạt mức trung bình xung quanh 3 điểm (từ 2,78 đến 3,09 điểm). 4.1.3. Sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hoạt động Ngoài chỉ tiêu lợi nhuận ròng được hầu hết các DN sử dụng, chỉ tiêu có tỷ lệ sử dụng trên 50% là chỉ tiêu tỷ lệ tăng trưởng doanh thu. Chỉ tiêu doanh thu trên một lao động có tỷ lệ sử dụng thấp nhất (từ 7,2% trong các DN thương mại đến 25% trong DN sản xuất). Các chỉ tiêu khác có tỷ lệ sử dụng trên dưới 40%. Mức độ áp dụng các chỉ tiêu tài chính đánh giá hoạt động Ngoài việc sử dụng thường xuyên chỉ tiêu lợi nhuận ròng, các chỉ tiêu tài chính đánh giá hoạt động được các DN sử dụng ở mức trung bình (trên 3,0). Chỉ tiêu doanh thu trên một lao động được sử dụng ở mức thấp nhất (2,6). Mức độ sử dụng các chỉ tiêu trong DN thương mại thấp hơn mức độ sử dụng chung của các DN được nghiên cứu. Tỷ lệ sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hoạt động phi tài chính Nhìn chung, việc sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hoạt động phi tài chính trong các DN đều ở tỷ lệ thấp. Chỉ tiêu tỷ lệ hài lòng của khách hàng được sử dụng với tỷ lệ cao nhất 46,2% trong các DN dịch vụ. Các chỉ tiêu thời gian giao hàng đúng hạn và thời gian sản xuất/thi n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 189 công được sử dụng ở tỷ lệ 45,0% và 41% trong các DN đa ngành và DN xây dựng. Các chỉ tiêu còn lại đều có tỷ lệ sử dụng dưới 40%. Mức độ sử dụng các chỉ tiêu đánh giá phi tài chính cũng khá thấp. Các chỉ tiêu đều có giá trị trung bình (mean) xung quanh 3,0. 4.1.4. Sử dụng các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định ngắn hạn Hai kỹ thuật phân tích thông tin được sử dụng phổ biến nhất là phân tích CVP và phân tích lợi nhuận sản phẩm, với tỷ lệ sử dụng đạt trên 53%. Các kỹ thuật còn lại đều có tỷ lệ sử dụng thấp trong khoảng từ 20 đến 50%. Tương ứng với tỷ lệ sử dụng, mức độ sử dụng hai kỹ thuật phân tích CVP và phân tích lợi nhuận sản phẩm cũng đạt mức trên trung bình (3,4). Các kỹ thuật còn lại đều xung quanh 3,0. 4.1.5. Các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định dài hạn Trong số các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định dài hạn, tỷ lệ hoàn vốn nội bộ được sử dụng nhiều nhất trong các DN thương mại (88,7%), tiếp theo là thời gian hoàn vốn trong các DN xây dựng (51,7%). Các chỉ tiêu còn lại đều có tỷ lệ sử dụng dưới 50%. Mức độ sử dụng các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định dài hạn trong các DN xây dựng cao hơn các DN khác nhưng cũng chỉ đạt từ 3,4 đến 3,6. 4.1.6. Các kỹ thuật KTQT chiến lược KTQT chiến lược là các kỹ thuật mới không chỉ ở Việt Nam mà còn với nhiều nước trên thế giới. Tại Việt Nam, kỹ thuật được sử dụng nhiều nhất là chi phí mục tiêu cũng chỉ đạt tỷ lệ 24,7% trong các DN xây dựng. Trong số các DN trả lời khảo sát chưa có DN nào sử dụng bảng điểm cân bằng. Các kỹ thuật còn lại có tỷ lệ sử dụng đều dưới 20%. Từ tỷ lệ sử dụng thấp làm cho mức độ áp dụng trung bình các kỹ thuật KTQT chiến lược trong các DN cũng thấp. Ngoài chi phí mục tiêu đạt giá trị trung bình trên 3,2 các kỹ thuật còn lại đều có giá trị trung bình dưới 3,0. Đặc biệt, chưa có DN nào trong số các DN được khảo sát áp dụng bảng điểm cân bằng. Mười kỹ thuật KTQT được sử dụng nhiều nhất trong các DN so với tỷ lệ áp dụng và xếp hạng trong các DN Ấn Độ và Australia trong nghiên cứu của Joshi (2001) như sau: Bảng 2. Mười kỹ thuật KTQT được áp dụng phổ biến trong các DN Việt Nam Việt Nam Ấn Độ Australia TT Tỷ lệ (%) Thứ hạng Tỷ lệ (%) Thứ hạng Tỷ lệ (%) Thứ hạng 1 Lợi nhuận ròng 100,0 1 n/a n/a n/a n/a 2 Hạch toán chi phí sản phẩm 66,1 2 n/a n/a n/a n/a 3 Dự toán sản xuất 57,7 3 100 1 100 2 4 Dự toán mua 56,8 4 n/a n/a n/a n/a 5 Dự toán tiền 52,6 5 95 2 99 2 6 Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu 52,4 6 n/a n/a n/a n/a 7 Dự toán tiêu thụ 49,0 7 n/a n/a n/a n/a 8 Dòng tiền 43,9 8 80 9 84 14 9 Hiệu quả vốn đầu tư (ROI) 43,5 9 100 1 96 3 10 Thời gian hoàn vốn 43,5 10 n/a n/a n/a n/a n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 190 4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ áp dụng KTQT Mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ áp dụng KTQT được nghiên cứu gồm 5 biến độc lập: (1) Áp lực cạnh tranh (cạnh tranh), (2) Dự phân quyền quản trị trong DN (phân quyền), (3) Mức độ áp dụng thông tin (công nghệ thông tin), (4) Sự quan tâm của nhà quản trị đến KTQT và (5) Trình độ nhân viên kế toán. Biến phụ thuộc trong mô hình là một thang đo đa hướng gồm các thành phần sau: (a) Hệ thống hạch toán chi phí, (b) Hạch toán dự toán, (c) Các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định, (d) Hệ thống đánh giá hoạt động và (e) Các kỹ thuật KTQT chiến lược. Kết quả phân tích tương quan Spearman và kiểm định hồi quy tuyến tính cho thấy: Mức độ phân quyền, Mức độ áp dụng CNTT và Trình độ nhân viên kế toán có tác động đến mức độ sử dụng một số kỹ thuật KTQT trong các DN Việt Nam. Cụ thể: Mức độ phân quyền trong DN có ảnh hưởng đến mức độ sử dụng các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định. YHTPT = 0,169 + 0,321PQ Mức độ phân quyền và trình độ nhân viên kế toán có ảnh hưởng đến việc sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hoạt động trong DN. YHTĐG = -0,226 + 0,162PQ + 0,147TĐKT Mức độ phân quyền và mức độ áp dụng CNTT có ảnh hưởng đến mức độ áp dụng các kỹ thuật KTQT chiến lược trong các DN. YKTQTCL = - 0,180 + 0,143PQ + 0,183CNTT Trong đó: PQ: Mức độ phân quyền trong DN CNTT: Mức độ áp dụng công nghệ thông tin TĐKT: Trình độ nhân viên kế toán Chưa có bằng chứng về mối quan hệ giữa Áp lực cạnh tranh và Sự quan tâm của nhà quản trị cấp cao đến mức độ áp dụng KTQT trong các DN Việt Nam. 5. Kết luận và các khuyến nghị Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ áp dụng KTQT trong các DN Việt Nam vẫn còn tương đối thấp, nhiều DN chưa quan tâm đến KTQT. Các phương pháp KTQT truyền thống được áp dụng là chủ yếu. Các phương pháp KTQT hiện đại như hạch toán chi phí theo hoạt động, bảng điểm cân bằng vẫn còn ít được áp dụng. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy: Chưa có bằng chứng về mối quan hệ giữa Áp lực cạnh tranh và Sự quan tâm của nhà quản trị cấp cao đến mức độ áp dụng KTQT trong các DN Việt Nam. Tuy nhiên, Mức độ phân quyền, Mức độ áp dụng CNTT và Trình độ nhân viên kế toán có tác động đến mức độ sử dụng một số kỹ thuật KTQT trong các DN Việt Nam. Trong đó, Mức độ phân quyền có tác động đáng kể đến mức độ sử dụng các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định, hệ thống đánh giá hoạt động và các kỹ thuật KTQT chiến lược. Từ kết quả nghiên cứu, có thể thấy để gia tăng mức độ áp dụng KTQT trong các DN ở Việt Nam, cần thực hiện các khuyến nghị sau: n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 191 - Các DN cần tăng cường phân quyền quản trị trong DN cho các nhà quản trị. Phân quyền thường gắn với trách nhiệm của các nhà quản trị do vậy nó làm phát sinh nhu cầu thông tin để sử dụng hiệu quả các nguồn lực cũng như sử dụng các chỉ tiêu đánh giá để khuyến khích nhân viên trong DN. - Trong điều kiện hiện nay, các DN cần tăng cường áp dụng CNTT nhằm tự động hóa các công đoạn trong quá trình thu thập, xử lý dữ liệu, tạo thuận lợi cho việc áp dụng các kỹ thuật KTQT tiên tiến. - Nâng cao trình độ kế toán, cập nhật các kiến thức KTQT hiện đại là điều kiện cần thiết để các kỹ thuật KTQT có thể được áp dụng trong các DN. ---------------------------------- Tài liệu tham khảo 1. Abdel-Kader, M. (2006). "Management accounting practices in the British food and drinks industry." British Food Journal Vol. 108 No. 5, 2006 pp. 336-357 Emerald Group Publishing Limited 0007-070X DOI 10.1108/00070700610661321. 2. Ahmad, K. (2012). The use of management accounting practices in Malaysian SMEs, University of Exeter. Doctor thesis. 3. Ahmad, N. S. M., &Leftesi, A. (2014). An Exploratory Study of the Level of Sophistication of Management Accounting Practices in Libyan Manufacturing Companies. International Journal of Business and Management Vol. II (2). 4. Anh, D. N. P. (2016). Factors Affecting the Use and Consequences of Management Accounting Practices in A Transitional Economy: The Case of Vietnam. Journal of Economics and Development, 18(1), 54-73. 5. Chenhall, R. H. and K. Langfield-Smith (1998). "Adoption and benefits of management accounting practices: an Australian study." Management Accounting Research9(1): 1-19. 6. Doan, N. P. A. (2012). The adoption of western management accounting practices in Vietnamese enterprises during economic transition. (PhD), Griffith University. 7. Dung, N. T. P., &Aoki, M. (2014). The EvolutionofManagementAccountingPractices in Vietnam: a SurveyResearchonVietnameseFoodandBeverageEnterprises. The KeizaiGaku, AnnualReportof the EconomicSociety,TohokuUniversity, Nhật Bản, Tập 74- Số 4, Tháng 3/2014., 74(4), 167-183. 8. Haldma, T., &Lääts, K. (2002). Influencing contingencies on management accounting practices in Estonian manufacturing companies. University of Tartu - Economics and Business Administration Working Paper No. 13. Available at SSRN: https://ssrn.com/abstract=419863 or 9. James, P. C. (2013). An Analysis of the Factors Influencing the Adoption of Activity Based Costing (ABC) in the Financial Sector in Jamaica. International Journal of Business and Social Research (IJBSR), 3(7). 10. Joshi, P. L. (2001). The international diffusion of new management accounting practices: the case of India. Journal of International Accounting, Auditing & Taxation 10 (2001) 85–109. 11. Karanja, J. C. N., Mwangi, E., &Nyaanga, P. (2014). Adoption of Modern Management Accounting Techniques in Small and Medium (SMEs) in Developing Countries: A Case Study of SMEs in Kenya. 12. Kariuki, S. N., &Kamau, C. G. (2016). Organizational contingencies influencing the adoption of strategic management accounting practices among manufacturing firms in Kenya. International Journal of Advanced Research in Management and Social Sciences, 4(5), 16. 13. Leite, A. A., Fernandes, P. O., &Leite, J. M. (2015). Contingent factors that influence the use of management accounting practices in the Portuguese textile and clothing sector. The International Journal of Management Science and Information Technology, Special Issue: 2015 Spanish-Portuguese Scientific Management Conference (59 - 78). 14. Maelah, R., & Ibrahim, D. N. (2007). Factors influencing activity based costing (abc) adoption in manufacturing industry. Investment Management and Financial Innovations, Volume 4, Issue 2, 2007, 113-124. 15. Pierce, B., & O’Dea, T. (1998). Management Accounting Practices in Ireland – The Preparers’ Perspective. Research paper series. Paper No. 34. October 1998. 16. Pollanen, R. M., &Abdel-Maksoud, A. B. (2010). The deploymentofcontemporarymanagementaccountingpractices in Canadianfirms: a contingencyapproach. InternationalJournalofManagerialandFinancialAccounting, 2(2), 134-152. 17. Shields, M. D. (1998). Management accounting practices in Europe: a perspective from the States. Management Accounting Research, 1998, 9, 50 1-5 13. 18. Subasinghe, J., &Fonseka, A. T. (2009). Factors Affecting the Low Adoption of Management Accounting Practices in Sri Lankan Business Organizations. Sri Lankan Journal of Management. Volume 14, Number 2, 95-114. 19. Sulaiman, M. b., Ahmad, N. N. N., &Alwi, N. (2004). Management accounting practices in selected Asian countries: A review of the literature. Managerial Auditing Journal, Vol. 19 Iss 4 pp. 493 - 508. doi: 10.1108/02686900410530501 n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 192 20. Sulaiman, S., Ramli, A., &Zainuddin, Z. N. (2015). Factors Driving Change in Management Accounting Practices: Malaysian Survey Evidence. In R. Hashim& A. B. A. Majeed (Eds.), Proceedings of the Colloquium on Administrative Science and Technology: CoAST 2013: Springer Singapore. 21. Sumkaew, N., Liu, L. Y. J., & McLaren, J. (2012). Management Accounting Practices in Thailand. Paper presented at the A Paper Presented at Asia-pacific Management Accounting Association Conference,, Xiamen University, China, November 2012. 22. Szychta, A. (2002). "The scope of application of management accounting methods in Polish enterprises." Management Accounting Research13(4): 401-418. 23. Wijewardena, H., &Zoysa, A. D. (1999). Comparative Analysis of Management Accounting Practices in Australia and Japan: An Empirical Investigation. The International Journal of Accounting, 34(1), 1999, 49-70. 24. Yalcin, S. (2012). Adoption and Benefits of Management Accounting Practices: An Inter-country Comparison. Accounting in Europe, 9(1), 95-110. doi: 10.1080/17449480.2012.664394 ----------------------------------
File đính kèm:
- muc_do_ap_dung_ke_toan_quan_tri_trong_cac_doanh_nghiep_viet.pdf