Một số khó khăn và vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ lao động nhập cư tiếp cận dịch vụ y tế tại làng Eahdil, tỉnh Đắk-Lăk
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm mô tả các khó khăn mà lao động nhập cư (LĐNC) trong việc tiếp cận
các dịch vụ y tế; và phân tích vai trò của nhân viên công tác xã hội (CTXH) trong việc hỗ trợ lao động
nhập cư tiếp cận dịch vụ y tế tại làng Eahdil, tỉnh Đắk-Lắk.
Phương pháp nghiên cứu: Thông qua phỏng vấn bán cấu trúc 30 LĐNC, thảo luận nhóm hai phiên
cùng các đại diện LĐNC đến từ Núi phía Bắc, Đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và
Đồng bằng sông Cửu Long. Nghiên cứu thực hiện tại làng Eahdil, tỉnh Đắk-Lắk từ tháng 1 - 4 năm 2015.
Kết quả: Nghiên cứu đã mô tả bốn nhóm yếu tố: Kinh tế-xã hội, điều kiện chính trị - xã hội, văn hóa -
xã hội và môi trường - khí hậu khắc nghiệt là rào cản khiến LĐNC gặp khó khăn trong việc tiếp cận các
dịch vụ y tế. Ngoài ra, nghiên cứu đã phân tích vai trò nhân viên CTXH trong việc hỗ trợ LĐNC thông
qua các hoạt động sau: vai trò truyền thông-nâng cao nhận thức, tham vấn tâm lý, và kết nối nguồn lực.
Kết luận: Hiểu được các yếu tố cản trở LĐNC tiếp cận dịch vụ y tế và sự cần thiết của nhân viên CTXH
trong lỉnh vực sức khỏe y tế trong cộng đồng. Khuyến nghị cơ quan quản lý nhà nước cần tạo điều kiện
thuận lợi cho LĐNC đăng ký tạm trú, các chương trình, chính sách việc làm, để họ để dàng tiếp cận các
dịch vụ y tế tại địa phương cho LĐNC. Tại xã (phường) cần thiết có nhân viên CTXH chuyên nghiệp để
hỗ trợ trực tiếp nhóm LĐNC.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số khó khăn và vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ lao động nhập cư tiếp cận dịch vụ y tế tại làng Eahdil, tỉnh Đắk-Lăk
g bệnh dịch, ý thức bảo vệ mội trường sống, thông tin chính sách vv giúp LĐNC. Theo lời kể của nữ LĐNC liên quan đến vai trò nhân viên CTXH trong việc truyền thông nâng cao nhận như sau, “Tất cả thông tin trên loa tại làng dùng tiếng bảng địa, LĐNC không hiểu, nhờ có nhân viên CTXH nên mỗi khi có đoàn phát nhu yếu phẩm và vật dụng y tế thì chị dẫn các con nhỏ đến xin, thuốc và các vật phẩm y tế đó đã giúp gia đình tôi trụ lại, và có thể sống được nơi rừng thiêng, nước độc này”. Trùng với chia sẻ trong thảo luận nhóm các đại diện và lãnh đạo nhóm cho rằng các thông tin về chính sách và các chiến dịch vệ sinh dịch tể trong cộng đồng, cũng như các chương trình phát vécxin miễn phí (chăn màn, thuốc sốt rét, kháng viêm, nhiễm trùng vv) thì được nhân viên CTXH báo, đồng thời hỗ trợ cùng LĐNC tới điểm cấp phát xin. Tại thảo luận nhóm các đại điện LĐNC nhận định nhân viên CTXH đã lồng ghép nâng cao nhân thức và năng lực cho LĐNC thông qua việc tổ chức các buổi chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm trong sản xuất sạch, hợp vệ sinh, bảo vệ (trong các lĩnh vực nông nghiệp, chăn nuôi, trồng trọt tại các hộ gia đình) với mục tiêu hướng chúng tôi (LĐNC) đến các mục tiêu vì sức khỏe cộng đồng, có thái độ và hành vi tích cực, phù hợp để xây dựng cộng đồng. Nhân viên CTXH cũng trang bị cho LĐNC các hiểu biết và nhận thức về các vấn đề liên quan đến sức khỏe, y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm, kết hợp với ý thức bảo vệ môi trường (đất, nguồn nước, vệ sinh chung nơi công cộng), Lê Văn Công 74 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) nhằm hạn chế tối đa các bệnh dịch và truyền nhiễm (sốt rét, sốt xuất huyết và các bệnh nhiễm trùng da). Chia sẻ nữ LĐNC “...việc nâng cao ý thức sức khỏe cộng đồng tại làng là các chương trình làm vệ sinh, làm sạch nơi ở, chấm dứt tình trạng làm ô nhiễm nước, xóa điểm nước tù đọng và bãi rác thải để bảo đảm sức khỏe cá nhân, gia đình và cộng đồng vv”. Bên cạch đó, 23 LĐNC nhận định nhân viên CTXH có vai trò hỗ trợ tâm lý cho LĐNC. Việc hỗ trợ tâm lý thể hiện qua việc nhân viên CTXH: tìm hiểu, lắng nghe các khó khăn, động viên, đồng hành cùng LĐNC vượt khó khăn. Trong thảo luận nhóm cho thấy trong giai đoạn đầu, nhân viên CTXH chủ động gặp gỡ người LĐNC, lắng nghe và chia sẻ các khó khăn của họ, biết được các nhu cầu người LĐNC. Phỏng vấn sâu cho thấy nhân viên CTXH giúp LĐNC vượt qua các sốc văn hoá, cảm giác cô lập và nhân viên CTXH chỗ dựa tinh thần của LĐNC tại làng Eahdil. Chia sẻ của nam LĐNC “...nơi ở mới không người thân, cảm giác xa lạ với môi trường sống, sinh hoạt của cộng đồng, không hiểu ngôn ngữ, tập tục địa phương, khi ốm đau, đói khát, tôi trải lòng với cảm giác lạc lõng, bị tách biệt, không có người thân, nhưng khi có sự đồng hành và động viên của anh chị CTXH tôi cố vượt qua và lấy lại thăng bằng trong cuộc sống”. Sự hỗ trợ và đồng hành của nhân viên CTXH theo lời kể của nam LĐNC “Chúng tôi không thể tìm được việc làm nhân viên CTXH hỗ trợ tìm việc tạm thời, nghèo đói và không đủ tài chính chi trả cho các dịch vụ y tế, gia đình có người ốm chỉ nằm nhà thì nhân viên CTXH vận động đi khám bệnh, xin thuốc trạm xá, hay tìm các nhà hảo tâm hỗ trợ thuốc men và chi phí điều trị.” Không chỉ hỗ trợ về tinh thần và vật chất, nhân viên CTXH đồng hành cùng LĐNC đã giúp LĐNC hội nhập vượt qua khó khăn chính trị - xã hội. Thông tin theo lời kể của nữ LĐNC cho thấy “Chúng tôi là LĐNC không thể tiếp cận dịch vụ y tế miễn phí, hay hỗ trợ thuốc khi ốm đau như người dân bản xứ không vì không có giấy tờ hợp pháp, biết được các khó khăn trên nhân viên CTXH tập trung chúng tôi, hướng dẫn đào tạo nghề, khi thành thục nghề chúng tôi được giới thiệu làm việc tại trang trại, có hợp đồng lao động, có người bảo lãnh tất cả chúng tôi được đăng ký tạm trú dài hạn và tiếp cận được dịch vụ y tế và chương trình hỗ trợ khác tại làng”. Trong đó nhận định vai trò kết nối nguồn lực của nhân viên CTXH, 28/30 LĐNC cho rằng nhân viên CTXH là cầu nối liên kết các nguồn lực giúp LĐNC hội nhập và tiếp cận các dịch vụ y tế. Theo chia sẻ của nữ LĐNC “Nhân viên CTXH tìm đến nơi sống của các gia đình nhập cư có trẻ em và người bị ốm để hỗ trợ thuốc (sốt rét, cảm, và kháng sinh), chăn màn. Khi chúng tôi cảm ơn thì nhân viên CTXH nói hãy cảm ơn những người cho các vật phẩm này, bằng việc vươn lên và vượt qua khó khăn, chúng tôi (nhân viên CTXH) chỉ là cầu nối vv”. Chia sẻ khác về vai trò kết nối nguồn lực của nhân viên CTXH “nhân viên CTXH nhờ người có chuyên môn hướng nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, cạo mủ cao su và chăm sóc cây cà phê. Khi có tay nghề, chúng tôi được nhân viên CTXH giới thiệu ký hợp đồng làm việc tại các nông trại, từ hợp đồng lao động này gia đình tôi có cơ hội tạm trú hợp pháp tại địa phương, khi có quyền tạm trú hợp pháp, và có thể tiếp cận các dịch vụ y tế và bảo hiểm y tế miễn phí tại địa phương”. Tâm sự về kết nối nguồn lực của cộng đồng theo chia sẻ của nam LĐNC như sau: “Các gia đình không thể tự đào giếng nước với độ sâu 20 mét do thiếu nguồn Lê Văn Công 75 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) lực, nhân viên CTXH hướng LĐNC chúng tôi tính tới việc hợp tác và sắp xếp nhân công, cũng như học hỏi kỹ thuật đào giếng, họ luân phiên giữa các gia đình cùng nhau đào giếng nước để có nước sạch dùng trong sinh hoạt và trồng cấy.” BÀN LUẬN Bốn nhóm khó khăn chính là rào cản LĐNC tiếp cận các dịch vụ y tế, thì khó khăn về kinh tế - xã hội, và chính trị - xã hội là khó khăn then chốt cản trở LĐNC tiếp cận các dịch vụ y tế. Dưới góc độ kinh tế - xã hội, thiếu thốn tài chính, thất nghiệp, không có đất canh tác, thiếu thốn và đói khổ nên khi ốm đau LĐNC không thể tìm đến các dịch vụ y tế tại địa phương. Nghiên cứu của Dang, Nguyen và Le Van Thanh cho thấy LĐNC khi đối mặt với khó khăn về kinh tế, chính trị - xã hội LĐNC không có bảo hiểm y tế, không được sự hỗ trợ tài chính và không thể tiếp các dịch vụ y tế tại địa phương (2, 4, 5). Tại làng Eahdil LĐNC bị loại ra khỏi đời sống chính trị - xã hội do không thể đăng ký tạm trú. Do không có giấy tờ cư trú hợp pháp nên không có quyền chính trị - xã hội, dẫn đến LĐNC không thể tiếp cận các dịch vụ y tế tại làng Eahdil. Trong nghiên cứu của Lê Bạch Dương và cộng sự cho thấy LĐNC khi di chuyển đến nơi mới thường thiếu những giấy tờ hợp pháp, điển hình là giấy chứng nhận vắng tạm trú (cư trú bất hợp pháp). Điều này khiến cho LĐNC khó có thể tiếp cận với các dịch vụ giáo dục, y tế, tình trạng thất nghiệp buộc LĐNC phải hợp đồng với mức lương thấp (6). Ngoài ra yếu tố văn hóa - xã hội cũng là khó khăn không nhỏ đối với LĐNC. Do LĐNC hoàn toàn xa lạ với môi trường, với nét sinh hoạt, ngôn ngữ, phong tục tập quán của người dân tộc Êđê, điều này khiến họ trải qua cảm giác lạc lõng, bị tách biệt. Mặt khác, việc thiếu thông tin, không tiếp cận được cơ quan chức năng khi cần được giúp đỡ, không có trường học cho con cái hay dịch vụ chăm sóc sức khỏe khi đau bệnh. Các nghiên cứu của Dang, N.A. và Anh, Dang Nguyen, đã cảnh báo yếu tố văn hóa cũng là vấn đề khó khăn phổ biến mà LĐNC gặp phải, thành kiến văn hóa và sự phân biệt đối xử giữa người bản địa và người nhập cư, nhiều gia đình nhập cư buộc phải di chuyển ra khỏi nơi họ đã định cư vì mâu thuẫn với dân bản địa, do thiếu hiểu biết về các tập tục văn hóa tại các vùng núi tây nguyên (2, 7). Bên cạch đó môi trường sống làng khắc nghiệt khiến LĐNC luôn trong tình trạng bị đe dọa bởi bệnh sốt rét, sốt xuất huyết, nhiễm trùng da vv... Do không nhà, không nước sạch, không điện, không nhà vệ sinh, thiếu vật dụng tối thiểu để giữ ấm, mùa đông lạnh giá, lo sợ bị tấn công bởi động vật hoang dã. Vì phải vật lộn với thiên nhiên để thích nghi nên việc tìm kiếm thông tin, dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là ưu tiên hàng đầu. UNFPA Vietnam và Le Bach Duong cho hay LĐNC phải đối với môi trường tại Đắk-Lắk, đặc thù về địa lý, khí hậu khắc nghiệt mà LĐNC phải đối mặt khi tới Đắk Lắk, bệnh sốt rét và yếu tố địa lý với mối nguy hiểm tiềm ẩn không thể đoán trước, sự rình rập của các loại thú hoang trong khi điều kiện nhà ở tạm bợ không an toàn, điều kiện sống thiếu thốn về điện, nước, nhà vệ sinh là các khó khăn cho LĐNC khi đến đây (6, 8). Vai trò của nhân viên CTXH trong việc hỗ trợ LĐNC Như vậy nghiên cứu đã chỉ ra cho chúng ta thấy LĐNC từ chỗ bị loại trừ ra khỏi đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội Lê Văn Công 76 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) khi mới tới làng Eahdil. Thông qua sự hỗ trợ, can thiệp kịp thời của nhân viên CTXH đã giúp LĐNC hội nhập một cách toàn diện tại địa phương. Nghiên cứu cho thấy, nhân viên CTXH đồng cảm, và đồng hành với LĐNC. Họ đóng vai trò làm cầu nối, trong việc giúp LĐNC tiếp cận các dịch vụ y tế tại địa phương, thông qua việc: 1/ Thông tin chính sách của Đảng và Nhà Nước cho LĐNC. 2/ Hỗ trợ tâm lý, nâng cao năng lực và nhận thức cho LĐNC. 3/ Vai trò kết nối các nguồn lực, tìm kiếm sự hỗ trợ của các mạnh thường quân chung tay giúp LĐNC. Nhân viên CTXH không làm thay thân chủ (9), tham vấn, hỗ trợ tâm lý và nâng cao năng lực là vai trò trọng yếu của nhân viên CTHX (10). Nghiên cứu này cho thấy nhân viên CTXH đã làm rất tốt vai trò kết nối nguồn lực. Do nhân viên CTXH đã trải nghiệm và từng là người nhập cư nên họ đồng cảm với LĐNC, họ có thời gian cư ngụ tại địa phương lâu, vốn xã hội rộng, bên cạch đó là sự nhiệt huyết, lòng yêu nghề đã giúp họ làm tốt vai trò này. Việc kết nối nguồn lực đã giúp LĐNC được học nghề, ký kết hợp đồng lao động, LĐNC hợp pháp cư trú tại địa phương. Từ đó họ có thể tiếp cận dịch vụ y tế theo luật định. Vai trò kết nối nguồn lực giúp nâng cao năng lực cho LĐNC, nó không chỉ giúp LĐNC có được kế sinh nhai (9, 11). Kết nối nguồn lực giúp nâng cao năng lực cho LĐNC tại làng Eahdil đã mở ra cho LĐNC cách cửa hội nhập toàn diện về kinh tế - chính trị - xã hội tại địa phương, mang lại cho LĐNC quyền về chính trị - xã hội, LĐNC ký được hợp đồng lao động, có hợp đồng thì LĐNC có thể đăng ký cư trú hợp pháp và quyền chính trị - xã hội tại làng Eahdil. Nâng cao nhận thức và kết nối nguồn lực của nhân viên CTXH, đã giúp LĐNC được bảo vệ, tiếp cân dịch vụ y tế, và hội nhập để phát triển (9, 12). Trong đó, vai trò hỗ trợ tâm lý của nhân viên CTXH là cần thiết và hết sức quan trọng, nhưng trong nghiên cứu cho thấy nhân viên CTXH chưa thật sự hiệu quả vai trò này, bởi lẽ họ chưa được đào tạo bài bản qua trường lớp về CTXH, chưa có kiến thức chuyên sâu về tâm lý và tham vấn hỗ trợ thân chủ. Nhân viên CTXH cần có chuyên môn giáo dục, y tế, tâm lý để đảm bảo an sinh cho thân chủ (13). Mặt dù nghiên cứu đã góp phần chỉ ra các khó khăn của LĐNC và cho thấy được vai trò hết sức quan trọng của nhân viên CTXH, nhưng nghiên cứu vẫn tồn tại các hạn chế sau: Do nghiên cứu này thuần túy là nghiên cứu định tính, mẫu nghiên cứu nhỏ, một số người LĐNC không rõ tiếng và phạm vi nghiên cứu chỉ trong một làng. Bên cạch đó khi hỏi về thu nhập và điều kiện sống, thì LĐNC không trả lời cụ thể bao nhiêu, họ chỉ nói họ có gì. Việc này làm cho thống kê về điều kiện kinh tế hiện tại chỉ mang tính liệt kê. KẾT LUẬN Nghiên cứu cho thấy LĐNC phải đối diện với bốn nhóm khó khăn chính (kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa, môi trường) khi di chuyển đến Eahdil. Trong đó kinh tế, chính trị - xã hội là rào cản chính hạn chế cơ hội tiếp cận các dịch vụ y tế tại địa phương của LĐNC. Nhân viên CTXH đã hỗ trợ và giúp LĐNC hội nhập một cách toàn diện về kinh tế - văn hóa, chính trị, sớm thích nghi điều kiên tự nhiên tại địa phương. Bên cạch đó nghiên cứu này đã chỉ ra nhân viên CTXH đã làm tốt vai trò truyền thông thông tin chính sách - nâng cao nhận thức, và kết nối nguồn lực đã góp phần giúp LĐNC tiếp cận các dịch vụ tế. Trong đó vai Lê Văn Công 77 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) trò tham vấn tâm lý cho LĐNC thì nhân viên CTXH làm chưa thật tốt. Do vậy, tác giả có các kiến nghị sau: Cơ quan quản lý nhà nước cần phải nới lỏng tạo mọi điều kiện cho LĐNC đăng ký tạm trú, có chính sách lao động việc làm hỗ trợ LĐNC để họ có khả năng tài chính, bên cạch việc tiếp cận an sinh xã hội và các dịch vụ y tế của địa phương. Các chương trình đào tạo cần phải bổ sung và kết hợp kiến thức tâm lý và kỹ năng tham vấn cho nhân viên CTXH, để họ có thể hỗ trợ thân chủ hiệu quả hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyen, L.T. & M.J. White (2007) Health status of temporary migrants in urban areas in Vietnam, international Migration. (101-134). 2. Dang, N.A., C. Tacoli & X.T. Huang (2003) Migration in Vietnam.A review of information on current trends and patterns, and their policy implications. Paper presented at regional conference on Migration, Development and Pro-Poor Policy Choices in Asia. 22–24. Dhaka, Bangladesh. 3. Wheeler, Sabates, Myrtha Waite & Le V.T (2004), Migration and Social Protection: A Concept Paper, Institute of Development Studies, Sussex. 3. 4. Anh, Nguyen N. (2008) UN Inter-Agency Project on Human Trafficking / Vietnam Office of United Nations Resident Coo,rdinator in Vietnam National Project Coordinator.3. Dang, N.A. (2001).Migration in Vietnam: Theoretical Approaches and evidence from a survey. Hanoi. 5. Le Van Thanh, Migrants and the Socio- Economic Development of Ho Chi Minh City (Viet Nam), NIE-SEAGA Conference 2006: Sustainability and South East Asia, Singapore (28-30 November 2006), p3. 6. Duong, Le Bach, D. Belanger & T.H. Khuat, (2008).Female Migration and Trafficking from Vietnam. Hanoi, Vietnam. 7. Anh, Dang Nguyen, (2004) Forced Migration in Vietnam: Historical and Contemporary Perspective, Vietnam. 8. UNFPA Vietnam, (2004) Internal migration in Vietnam: the current situation, Vietnam, Hanoi. 9. Judith Milner, Steve Myers and Patrick O’Byrne (2015), “Assessment in social work”, Red Globe Press; Fourth Edition, 4th edition edition. 10. Thelma, Lee-Mendoza (1999) Social Work with groups, Megabook company, Philippines. 11. National Association of Social Workers (NASW) (2002) Qualified Clinical Social Worker (QCSW), 19. 12. Thelma Lee-Mendoza (2008) Social Welfare and Social Work, Central Book Supply, INC. Philippines. 13. Bùi Thị Xuân Mai (2010), Nhập môn Công tác xã hội, NXB Lao động Xã hội. Lê Văn Công
File đính kèm:
- mot_so_kho_khan_va_vai_tro_cua_nhan_vien_cong_tac_xa_hoi_tro.pdf