Một số giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học các học phần chuyên ngành bằng tiếng Anh trong đào tạo cử nhân quản lí công ở Việt Nam
Tiếng Anh đã trở thành phương tiện giao tiếp rất quan
trọng trong tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế, văn
hoá - xã hội của mỗi quốc gia. Quá trình toàn cầu hóa
đang diễn ra ngày càng sâu rộng với số lượng người sử
dụng tiếng Anh ở nước ta không ngừng tăng. Sử dụng
tiếng Anh là một nhu cầu thiết yếu đối với thế hệ trẻ trong
thời đại mới bởi việc sử dụng hai ngôn ngữ sẽ giúp họ
gặt hái được thành công trong môi trường hội nhập khu
vực và cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa [1]. Điều
này đặt ra vấn đề cần quan tâm về dạy và học ngoại ngữ
ở các bậc học, trong đó có giáo dục đại học. Việc dạy các
môn học khác trong chương trình đào tạo bằng ngoại ngữ
được xem như một định hướng mang tính đột phá đã
được đề cập trong Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ
thống giáo dục quốc dân [2].
Hiện nay, sinh viên (SV) Việt Nam có rất nhiều điều
kiện, môi trường học tập tiếng Anh, song tỉ lệ SV tốt
nghiệp có thể sử dụng tiếng Anh trong môi trường làm
việc còn rất thấp. Thực hiện đào tạo theo nhu cầu xã hội
với nhân lực chất lượng cao ngành Quản lí công đòi hỏi
phải đào tạo ra những công dân toàn cầu. Đào tạo chuyên
ngành bằng tiếng Anh ngoài việc nâng cao trình độ tiếng
Anh tổng quát cho người học còn thúc đẩy và tăng cường
khả năng tiếp cận, khai thác các nguồn tài liệu khoa học,
chuyên môn bằng tiếng Anh. Điều này hoàn toàn phù
hợp với chính sách khuyến khích, đẩy mạnh hội nhập
quốc tế nhằm phát triển giáo dục đại học Việt Nam ngang
tầm khu vực và thế giới [3].
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học các học phần chuyên ngành bằng tiếng Anh trong đào tạo cử nhân quản lí công ở Việt Nam
nh, làm việc nhóm hay viết báo cáo. Để làm được điều đó, cơ sở đào tạo phải chú trọng trong việc thiết kế chương trình đào tạo với sự tham gia phối hợp chặt chẽ của GV giảng dạy [4]. Bên cạnh đó, các trường cần quan tâm tới sĩ số chuẩn của lớp học tiếng Anh, tạo môi trường thực hành ngôn ngữ tốt cho SV, thực hiện khoa học việc đánh giá trình độ và kĩ năng giao tiếp, kĩ năng trình bày. SV cần phải giảm được những áp lực, khó khăn của kiến thức chuyên ngành khi học chuyên ngành Quản lí công bằng tiếng ngay từ giai đoạn học tiếng Anh cơ bản hay tiếng Anh chuyên ngành. 2.3.2. Nâng cao động lực và khích lệ thái độ học tập của sinh viên trong quá trình giảng dạy Theo phương châm “lấy người học làm trung tâm”, trong quá trình dạy - học, tìm hiểu nhu cầu của người học là công việc mà GV tham gia dạy các học phần chuyên ngành bằng tiếng Anh nên làm để thay đổi, điều chỉnh và bổ sung tài liệu học tập cũng như cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả đào tạo. GV tham gia giảng dạy cần tìm hiểu về các yếu tố động lực có ảnh hưởng sẽ giúp đưa ra cách thức giảng dạy và nâng cao được năng lực của người học [5]. Khi trình độ Anh ngữ của SV có thể đáp ứng, việc tạo hứng thú cho SV học chuyên ngành bằng tiếng Anh sẽ không phải là khó khăn quá lớn. Vì vậy, để khích lệ thái độ tích cực học tập, GV bước đầu nên tránh những vấn đề quá chuyên sâu, khó hiểu. Mặt khác, để giúp cho SV có ý thức về tầm quan trọng của học phần chuyên ngành, GV nên động viên, khuyến khích họ tự tìm thêm những tài liệu có liên quan đến học phần họ đang học và khích lệ để họ hiểu được nội dung của tài liệu, văn bản đó thông qua tự học. Việc tìm hiểu những vấn đề lí luận, thực tiễn về quản lí công ở các quốc gia trên thế giới sẽ giúp SV vừa nâng cao được cả chuyên môn và ngôn ngữ. Phương pháp giảng dạy kết hợp với seminar, tăng cường tổ chức các hoạt động học thuật thông qua các cuộc thi nhỏ với các chủ đề như mô hình cải cách hành chính, đạo đức công vụ, văn hóa công sở... sẽ giúp SV hào hứng nghiên cứu, chuẩn bị tốt để cạnh tranh với nhau do đó sẽ khích lệ thái độ học tập của SV. 2.3.3. Nâng cao kĩ năng giảng dạy bằng tiếng Anh của giảng viên chuyên ngành Việc giảng dạy bằng tiếng Anh là một nét đặc trưng trong đào tạo nhân lực chất lượng cao. Đặc điểm này vừa là thể hiện sức hút của chương trình đối với người học nhưng cũng đồng thời là áp lực rất lớn đối với các cơ sở đào tạo khi phải đối mặt với vấn đề chất lượng của GV. GV giảng các học phần chuyên ngành Quản lí công bằng tiếng Anh vừa phải cải thiện khả năng tiếng Anh vừa phải nâng cao kĩ năng giảng dạy. Các GV cần triển khai các phương pháp giảng dạy hiện đại như dạy học theo dự án, tăng cường hình thức thảo luận, thuyết trình. Do đó, việc đào tạo và thường xuyên bồi dưỡng GV thông qua các khóa tập huấn phương pháp, nâng cao năng lực là cần thiết [6]. Các trường nên đưa nội dung dự giờ và nghe giảng từ GV có kinh nghiệm đối với các GV trẻ là một yêu cầu bắt buộc. Trong điều kiện GV giàu kinh nghiệm giảng dạy bằng tiếng Anh của chuyên ngành còn ít thì có thể dự giờ từ GV giảng dạy các học phần cơ sở ngành như Kinh tế học vĩ mô, Quản lí học. Đây là cách học tập kinh nghiệm trực quan và sinh động nhất giúp nâng cao năng lực giảng dạy bằng tiếng Anh của GV nói chung. GV có thể tự đúc kết kinh nghiệm giảng dạy và học tập được ngay những kĩ năng cần thiết cho việc giảng dạy bằng ngoại ngữ để áp dụng đối với các học phần chuyên ngành Quản lí công. Mỗi trường có thể tạo áp lực nâng cao kĩ năng giảng dạy bằng tiếng Anh của GV thông qua việc cho đăng kí kế hoạch thực hiện giảng dạy bằng tiếng Anh đối với GV ngành này bởi giáo cần có một kế hoạch, lộ trình cụ thể khi dạy bằng tiếng Anh những học phần rất chuyên sâu của ngành như Quản lí tổ chức công, Quản lí tài chính công, Quản lí dịch vụ công. 2.3.4. Thu hút giảng viên có trình độ chuyên môn và năng lực tiếng Anh tốt Hiện nay, cho dù có nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm và phát triển đội ngũ GV ngành Quản lí công, các trường vẫn cần có đẩy mạnh việc thu hút số GV được đào tạo, nghiên cứu ở nước ngoài bằng ngôn ngữ Anh. Nếu đội ngũ này tham gia quá trình đào tạo thì hoàn toàn có thể đáp ứng ngay yêu cầu giảng dạy các học phần chuyên ngành bằng tiếng Anh. Ngoài đội ngũ GV cơ hữu, các cơ sở giáo dục đại học cũng cần có chiến lược và chủ động thu hút, mời giảng các chuyên gia ở các Bộ, ngành về phân tích, hoạch định chính sách công cũng như các nhà quản lí ở các cơ quan, doanh nghiệp giàu kinh nghiệm thực tiễn trong khu vực công. Các cơ sở cần xây dựng được cho mình đội ngũ GV không chỉ mạnh về lí luận mà còn có thực tế phong phú để đáp ứng được yêu cầu giảng dạy ngành này trong bối cảnh cải cách khu vực công đang diễn ra một cách mạnh mẽ. VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 254-258 257 2.3.5. Xây dựng chương trình đào tạo khoa học gắn với liên kết các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước Việc đào tạo ngành Quản lí công tại Việt Nam nói chung cần tiếp tục tham khảo các chương trình của nhiều quốc gia trong khu vực và các nước tiên tiến khác trên thế giới. Lựa chọn các học phần với nội dung cụ thể đưa vào đào tạo bằng tiếng Anh phải được thực hiện đồng bộ, có tính khoa học cao, gắn với điều kiện cụ thể hiện nay (tính phù hợp của từng học phần tại Việt Nam, điều kiện GV cụ thể của GV ngành này trong nước...). Điều này vừa đáp ứng yêu cầu thực tiễn ở nước ta, vừa giúp SV có thể dễ dàng học tập (bậc đại học và sau đại học) tại các trường trong nước cũng như trên thế giới, người học sau khi tốt nghiệp cũng có nhiều lợi thế trong môi trường làm việc quốc tế. Hoạt động này cần có sự liên minh tham gia của các trường trong đào tạo Quản lí công ở Việt Nam, cùng mở rộng quan hệ với các cơ sở đào tạo đại học khác ở các nước phát triển. Các trường không nên cùng một lúc đưa vào giảng dạy tất cả các học phần chuyên ngành bằng tiếng Anh mà việc này cần có lộ trình thống nhất. Để giảm gánh nặng cho các cơ sở đào tạo, việc phân công đảm nhận phát triển và thực hiện giảng dạy cho mỗi cơ sở có ý nghĩa trong việc phát huy thế mạnh tổng thể trong đào tạo và rút ngắn thời gian đưa nhiều hơn số lượng các học phần được giảng dạy bằng tiếng Anh. 2.3.6. Đầu tư cho thư viện và tài liệu học tập Đào tạo bậc đại học yêu cầu rất cao đối với việc tự học và tự nghiên cứu của SV, đặc biệt là SV học bằng tiếng nước ngoài. Để hình thành một môi trường học tập và nghiên cứu có hiệu quả cho SV, nâng cao chất lượng đào tạo các học phần chuyên ngành bằng tiếng Anh trong đào tạo cử nhân Quản lí công, các cơ sở đào tạo cần đầu tư nâng cấp thư viện với chất lượng phục vụ ngày càng tốt hơn, thư viện phải đáp ứng nhu cầu tự học và tạo môi trường cho SV tự chủ hơn trong việc học tập; bổ sung cho thư viện nguồn tài liệu có nguồn gốc từ nước ngoài là rất cần thiết trong quá trình đào tạo. Sử dụng nguồn tài liệu thực trong cuộc sống (báo, tạp chí, mạng trực tuyến) là nguồn tài liệu hữu ích để nâng cao vốn từ vựng chuyên ngành cho SV [7]. Để phục vụ đào tạo ngành này, các cơ sở có thể tiếp cận tạp chí bằng tiếng Anh được xuất bản trong nước bởi Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân hay Đại học Quốc gia Hà Nội. Các nhà trường cần đẩy mạnh mô hình thư viện điện tử nhằm đáp ứng nhiều hơn nhu cầu nghiên cứu, giảng dạy và học tập. Trong điều kiện đào tạo ngành Quản lí công ở nước ta hiện nay, cần thực hiện đồng thời việc lựa chọn, sử dụng tài liệu có sẵn bằng tiếng Anh của nước ngoài và tổ chức biên soạn tài liệu giảng dạy. Như đã phân tích ở trên, điều này sẽ giảm được áp lực trong giai đoạn đầu triển khai. Đồng thời, nó vẫn đảm bảo việc tiệm cận với trình độ đào tạo của các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. 2.3.7. Tăng cường giám sát quá trình giảng dạy, đồng thời đảm bảo quyền lợi của sinh viên Quá trình giảng dạy các học phần chuyên ngành bằng tiếng Anh cần được giám sát chặt chẽ. Các nhà trường phải yêu cầu GV giảng dạy bằng tiếng Anh các học phần thực hiện đúng và đầy đủ các quy định về lịch trình giảng dạy, quản lí lớp... theo quy định. Quy định rõ ràng về quyền lợi của GV cũng như của SV khi giảng dạy, học tập các học phần chuyên ngành bằng tiếng Anh là rất hữu ích. SV phải nắm rõ về quyền lợi cũng như các quy định khi tham gia học tập các học phần này. Thông tin về GV, sách, tài liệu học tập, tham khảo, phương pháp và hình thức đánh giá cần được công khai trong kế hoạch giảng dạy của học phần. Những học phần học tập bằng tiếng Anh nên được cân nhắc ghi rõ trong bảng điểm kết quả học tập khi tốt nghiệp để có sự phân biệt với việc giảng dạy bằng tiếng Việt thông thường. Bên cạnh đó, mỗi cơ sở đào tạo cần lấy ý kiến SV về việc dạy học các học phần chuyên ngành bằng tiếng Anh để có được thông tin phản hồi, sự điều chỉnh trong tổ chức đào tạo ngành Quản lí công. 2.3.8. Hình thành cộng đồng học tập đối với sinh viên ngành Quản lí công Triển khai giảng dạy các học phần chuyên ngành trong đào tạo cử nhân bằng tiếng Anh không ngoài mục đích để chương trình đào tạo ngành này kế thừa được những thành tựu của các nước phát triển nói riêng và giáo dục đại học ở nước ta hội nhập được với quốc tế nói chung. Từ góc độ của người học, việc hình thành một cộng đồng học tập là vô cùng quan trọng. Trong bối cảnh số trường đào tạo ngành Quản lí công còn ít ở Việt Nam thì cộng đồng học tập của SV sẽ có nhiều lợi ích, góp phần thúc đẩy việc học tập suốt đời cho người học. Ngoài thời gian học tập ở giảng đường đại học, SV có nhiều cơ hội tiếp xúc với nhau để trau dồi kiến thức, hình thành phẩm chất, kĩ năng nghề nghiệp, kĩ năng cá nhân như việc tham gia sinh hoạt câu lạc bộ chẳng hạn. Khi các trường tổ chức giảng dạy các học phần chuyên ngành bằng tiếng Anh, cộng học tập của SV sẽ phát huy vai trò của mình trong việc giúp họ tăng khả năng học hỏi về cả chuyên môn và ngoại ngữ. SV sẽ tăng tính tự chủ, có ý thức ngành nghề, chủ động tìm hiểu và cập nhật những vấn đề thực tiễn chẳng hạn như về Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) hay Chỉ số về sự hài lòng của người dân, tổ chức với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS). Để cộng đồng học tập thực sự có hiệu quả, các hình thức tổ chức với trách nhiệm xây dựng của các thành viên rất quan trọng. Bên cạnh đó, chúng ta cần xem xét cụ thể VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 254-258 258 các yếu tố văn hoá giáo dục, kết hợp hài hoà giữa phương Đông và phương Tây để hạn chế những “rào cản” cho việc áp dụng cộng đồng học tập [8]. Vì đặc thù các trường hiện đang đào tạo ngành Quản lí công ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước nên cộng đồng học tập của SV này cũng phải được lựa chọn những hình thức, cách thức tổ chức cho phù hợp, hiệu quả nhằm thu hút được số đông SV tham gia. Mức độ đa dạng của cộng đồng sẽ càng giúp nâng cao hiệu quả của việc đào tạo ngành này nói chung và việc dạy học các học phần chuyên ngành bằng tiếng Anh nói riêng. 3. Kết luận Tổ chức giảng dạy học phần chuyên ngành Quản lí công bằng tiếng Anh là một hướng đi đúng đắn, phù hợp với xu thế và đòi hỏi thực tiễn hiện nay. Điều này đòi hỏi các cơ sở đào tạo vừa phải tháo gỡ những bất cập chung thường gặp vừa phải có kế hoạch triển khai với một ngành mang tính đặc thù. Các trường đại học không chỉ nâng cao chất lượng đào tạo, uy tín của mình mà còn đem lại nhiều lợi ích cho cả GV và SV. Một số giải pháp được đề xuất trong bài viết này có thể là sự tham khảo cho các cơ sở đào tạo trong việc khắc phục những bất cập để có thể thực hiện có hiệu quả việc giảng dạy các học phần chuyên ngành bằng tiếng Anh trong đào tạo cử nhân Quản lí công nhằm góp phần đào tạo nhân lực chất lượng cao ngành này ở Việt Nam. Tài liệu tham khảo [1] European Commission (2010). European Language Policy and CLIL: A Selection of EU funded Projects. [2] Thủ tướng Chính phủ (2017). Quyết định số 2080/QĐ-TTg ngày 22/12/2017 về phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017-2025. [3] Quốc hội (2018). Luật số 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học. [4] Tar I. - Varga K. C. - Wiwczaroski T. B. (2009). Imrpoving ESP Teaching through Collaboration: The Situation in Hungary. ESP World, Issue 1 (22), Vol. 8, pp. 46-51. [5] Zohreh Molaee - Fariborz Dortaj (2015). Improving L2 Learning: An ARCS Instructional-motivational Approach. Procedia - Social and Behavioral Sciences, Vol. 171, pp. 1214-1222. [6] Trần Thị Thanh Thủy - Hà Hồng Nga (2015). Thực trạng dạy và học tiếng Anh chuyên ngành ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội: Thách thức và giải pháp. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (Khoa học xã hội), số 60 (6), tr 124-130. [7] Nguyễn Thị Thanh Vân (2014). Nâng cao vốn từ vựng tiếng Anh chuyên ngành qua hoạt động cá nhân. Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 11 (229), tr 47-50. [8] Nguyễn Thị Mai Hương - Nguyễn Thị Mộc Lan (2017). Xây dựng cộng đồng học tập tiếng Anh: Những vấn đề cần suy nghĩ khi lựa chọn mô hình học tập của phương Tây. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (Khoa học xã hội), số 62 (11), tr 126-133. NGHIÊN CỨU NHU CẦU HỌC TIẾNG ANH... (Tiếp theo trang 263) Tài liệu tham khảo [1] Bouzidi H. (2009). Between the ESP Classroom and the Workplace: Bridging the Gap. English Teaching Forum, No. 3. [2] Canale, M. and Swain, M. (1980). Theoretical bases of communicative approaches to second language teaching and testing. Applied Linguistics 1, pp. 1-47. [3] Hutchinson, T. and A. Water (1987). English for Specific Purposes: A Learning centred Approach. Cambridge: CUP. [4] Lawson, K. H. (1979). Philosophical Concepts and Values in Adult Education. Milton: Open University. [5] Luka, I. (2009). Development of Students’ English for Specific Purposes. Competence in Tourism Studies at tertiary Level. English for Specific Purposes World, Issue 4 (25), Vol. 8, Online Journal for Teachers at retrieved on 12 March 2010. [6] Savas, B. (2009). Role of Functional Academic Literacy in ESP teaching: ESP Teacher Training in Turkey for Sustainable Development. The Journal of International Social Research, Vol. 2/9. [7] Widdowson, H. G. (1978). Teaching Language as Communication. London: OUP. [8] Widdowson, H.G. (1981). English for Specific Purposes: Criteria for Course Design in English for Academic and Technological Purposes. Eds. L. Selinker, E. Tarone, and V. Hanzeli Rowley. Mass; Newburry. [9] Zhang, Zuocheng (2007). Towards an Integrated Approach to Teaching Business English: A Chinese Experience. English for Specific Purposes, Vol. 26, No. 4, pp. 399-410.
File đính kèm:
- mot_so_giai_phap_nang_cao_hieu_qua_day_hoc_cac_hoc_phan_chuy.pdf