Mối quan hệ giữa công việc chăm sóc không được trả công với bình đẳng giới ở Việt Nam
Các nghiên cứu cho thấy, ở Việt Nam nữ giới dành thời gian cho công việc chăm sóc không được
trả công gấp gần 1,5 lần so với nam giới. Đây là hoạt động có chi phí cơ hội và không thể thiếu đối với
sự vận hành của xã hội và đời sống của con người. Tuy nhiên, sự phân công trách nhiệm thiếu bình đẳng
trong gia đình nghiêng về nữ giới dẫn đến họ bị hạn chế về quyền lựa chọn cũng như cơ hội tham gia
vào những hoạt động khác có ý nghĩa hơn với họ, dẫn đến gia tăng bất bình đẳng giới. Đó là sự tham
gia vào lực lượng lao động, vào thị trường lao động được trả công, vào đời sống chính trị và thời gian
dành cho nghỉ ngơi, giải trí, học tập. Thông qua việc phân tích thực trạng công việc chăm sóc không
được trả công của nữ giới và một số ảnh hưởng của nó tới sự phát triển của phụ nữ, bài viết đề xuất
các khuyến nghị giảm công việc chăm sóc không được trả công đối với phụ nữ nhằm đẩy mạnh bình
đẳng giới ở Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa công việc chăm sóc không được trả công với bình đẳng giới ở Việt Nam
vào một công việc liên tục (xét về mặt thời gian) của phụ nữ là bị hạn chế hơn so với nam giới; nữ giới 50 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 37 (04-2019) ít có khả năng làm việc vào buổi tối và ngày cuối tuần, hoặc đi công tác xa nhà. Điều này lại càng hạn chế kinh nghiệm của họ trên thị trường lao động, thu nhập và sự hấp dẫn với chủ lao động tiềm năng, tiếp tục củng cố thực tiễn chênh lệch giới. 3.2.3. Công việc chăm sóc không được trả công ảnh hưởng đến thu nhập cá nhân Khi nữ giới phải dành thời gian và sức lực đáng kể cho công việc chăm sóc không được trả công sẽ bị hạn chế về không gian (chủ yếu là ở nhà) và thời gian, ít có cơ hội lựa chọn nghề nghiệp và việc làm có thu nhập cao, họ buộc phải lựa chọn những công việc sản xuất kinh doanh gần nhà. Điều này dẫn đến việc môi trường làm việc của phụ nữ ít linh hoạt hơn nam giới, khiến họ bị bó hẹp vào những việc làm giản đơn, thu nhập thấp. Thu nhập trung bình của nữ giới từ việc làm được trả lương thường thấp hơn so với nam giới, điều này có nghĩa là có sự chênh lệch về tiền lương lao động. Trong 3 nhóm lao động theo vị thế việc làm chỉ có nhóm “Lao động làm công ăn lương” có số liệu về thu nhập cá nhân từ tiền lương, còn đối với nhóm “Lao động tự làm” và “Lao động làm công cho gia đình không hưởng lương” thu nhập của họ nhập chung với thu nhập của cả hộ gia đình. Vì vậy, trong khuôn khổ bài viết này chỉ có thể so sánh thu nhập cá nhân theo giới tính của nhóm “Lao động làm công ăn lương”. Bảng 3. Thu nhập từ việc làm bình quân tháng theo giới tính của “Lao động làm công ăn lương”, giai đoạn 2009-2016 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 Chung (1000 đồ ng) 2.258 2.474 2.809 3.483 3.789 4.126 4.716 5.066 Nam (1000 đồ ng) 2.483 2.668 3.056 3.630 3.938 4.302 4.925 5.304 Nữ (1000 đồ ng) 1.987 2.297 2.712 3.267 3.575 3.881 4.430 4.739 Chênh lệ ch tiền lương theo giớ i tí nh (%) 20 13,9 11,3 10,0 9,2 9,8 10,1 10,7 Chỉ số khoảng cách giới Ew/Em 0,80 0,86 0,89 0,90 0,91 0,90 0,90 0.89 Nguồn: Viện Khoa học Lao động-Xã hội (ILSSA)- Xu hướng Lao động và Xã hội Việt Nam năm 2014. Tổng cục Thống kê (2016, 2017), Báo cáo Điều tra Lao động việc làm năm 2015, 2016 [4]. Bảng 3 cho thấy, thu nhập từ việc làm bình quân của lao động nữ làm công ăn lương luôn thấp hơn lao động nam trong cả giai đoạn 2009-2016 trên 10,0%, mặc dù tốc độ tăng tiền lương danh nghĩa bình quân của lao động nữ luôn cao hơn lao động nam, tương ứng là 19,8% và 16,2%, do xuất phát điểm tiền lương danh nghĩa của lao động nữ thấp hơn lao động nam. Bảng số liệu trên cũng cho thấy, mặc dù chỉ số khoảng cách giới về tiền lương có xu hướng tăng từ 0,80 năm 2009 lên 0,89 năm 2016, nhưng nữ giới vẫn tiếp tục nhận mức thù lao thấp hơn so với nam giới. Sự chênh lệch giới trong thu nhập còn được phản ánh rõ nét thông qua thu nhập bình quân/tháng của lao động làm công ăn lương chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật. Bảng 4. Thu nhập từ việc làm bình quân/tháng của lao động làm công ăn lương chia theo giới tính và trình độ chuyên môn kỹ thuật, năm 2016 Trình độ chuyên môn kỹ thuật Thu nhập từ việc làm bình quân tháng (nghìn đồng) Chênh lệch thu nhập theo giới tính (%) Chỉ số khoảng cách giới Ew/Em)Tổng số Nam Nữ Tổng số 5.066 5.304 4.739 10,7 0,89 Chưa đào tạo chuyên môn kỹ thuật 4.224 4.367 4.015 8,1 0,92 Dạy nghề 5.834 6.009 4.899 18,5 0,82 Trung cấp chuyên nghiệp 5.150 5.568 4.748 14,7 0,85 Cao đẳng 5.280 5.809 4.935 15,0 0,85 Đại học trở lên 7.374 8.173 6.559 19,7 0,8 Nguồn: Tổng cục Thống kê (2017), Báo cáo Điều tra Lao động việc làm năm 2016 [4]. 51 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 37 (04-2019) Bảng 4 phản ánh sự khác biệt về thu nhập bình quân/tháng của nhóm Lao động làm công ăn lương theo giới tính và trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhất đạt được năm 2016. Số liệu cho thấy, tính chung nam giới có thu nhập bình quân/tháng cao gần 10% so với nữ giới và cao hơn ở tất cả các phân tổ theo trình độ chuyên môn kỹ thuật. Trong các nhóm Lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật, thì nhó m lao độ ng “Chưa qua đào tạo” và có trình độ “Trung cấp chuyên nghiệ p” và “Cao đẳ ng” có chỉ số khoảng cách giới về tiề n lương của nữ giới so với tiền lương của nam giới cao nhất, đạt 0,92, 0,85 và 0,85, tức là mứ c bình đẳng giới khá tốt, trong khi đó nhóm lao động có trình độ “đại học trở lên” đang ở mức thấp nhất, đạt 0,8, nghĩa là bất bình đẳng giới về tiền lương cao nhất. Sự khác biệt về thu nhập giữa lao động nam và nữ là kết quả của nhữ ng khá c biệ t theo trình độ họ c vấ n, trì nh độ chuyên môn kỹ thuậ t, kinh nghiệm, ngà nh nghề , lĩ nh vự c là m việ c, vị thế trong việ c là m, số giờ làm việc Hơn nữa, nữ giới thường tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ nhiều hơn, sản xuất công nghiệp nhưng trình độ tay nghề thấp, năng suất lao động thấp, không yêu cầu trình độ chuyên môn kỹ thuật và thường được trả tiền lương, tiền công thấp. Nguyên nhân của những khác biệt trên do ảnh hưởng bởi công việc chăm sóc không được trả công được biểu hiện thông qua: - Quan điểm cho rằng, thiên chức “muôn thuở” của phụ nữ trong việc nuôi dưỡng và duy trì gia đình, kéo theo đầu tư vào vốn con người của con trai nhiều hơn con gái. Đến năm 2016 tỷ lệ lao động nam qua đào tạo đạt 23,3%, trong khi đó tỷ lệ này ở lao động nữ chỉ có 18,4%, thấp hơn của lao động nam 4,9%. Đây là yếu tố quan trọng hạn chế sự tiếp cận của lao động nữ đối với các vị trí cao hơn trong nghề nghiệp - công việc có thu nhập cao; - Gánh nặng công việc chăm sóc không được trả công và đị nh kiế n giớ i đã giảm cơ hội tiếp những công việc có trình độ cao, thu nhập tốt của nữ giới vì không ít nhà tuyển dụng cho rằng nữ giới sẽ không thể tập trung cho công việc do bận rộn việc gia đình; - Chênh lệch về thời gian dành cho các công việc được trả lương. Số giờ lao động được trả lương của nữ giới thấp so với nam giới khoảng 14%. Vì họ có trách nhiệm và thời gian không cân xứng với nam giới dành cho công việc chăm sóc không được trả công, nữ giới có xu hướng nhận những việc làm bán thời gian hơn là những việc làm toàn thời gian, ít có cơ hội hơn nam giới để làm việc ngoài giờ hành chính, khiến giảm thu nhập họ có thể có được; - Năng suất lao động của nữ giới thấp hơn nam giới. Ngoài hạn chế về trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc thì sự phân công lao động theo giới trong thực hiện công việc không được trả công xé lẻ thời gian của nữ giới, trong khi nam giới làm việc được tập trung hơn. Như vậy, gánh nặng không công bằng của công việc chăm sóc không được trả công đối với nữ giới là nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng trong thu nhập. 3.2.4. Công việc chăm sóc không được trả công ảnh hưởng đến thời gian dành cho nghỉ ngơi, giải trí và học tập Do phải đảm nhiệm phần lớn công việc chăm sóc, phụ nữ có ít thời gian rảnh rỗi cho bản thân hơn nam giới như nghỉ ngơi, giải trí và học tập. UNDP đã đưa ra kết quả phân tích một mẫu gồm 62 quốc gia: nam giới dành ra trung bình 4,5 tiếng một ngày để tham gia hoạt động xã hội và giải trí, trong khi con số này ở phụ nữ là 3,9 tiếng. Tại các quốc gia có mức độ phát triển con người thấp, thời gian cho hoạt động xã hội và giải trí của nam giới nhiều hơn phụ nữ gần 30%; tại các quốc gia có mức độ phát triển con người rất cao, sự chênh lệch này là 12% [7]. Do phải đảm nhiệm phần lớn công việc chăm sóc, phụ nữ có ít thời gian có ít thời gian rảnh rỗi cho bản thân hơn nam giới như nghỉ ngơi, giải trí, học tập và chăm sóc bản thân. Kết quả khảo sát của Viện Khoa học Lao động Xã hội và Khoa Quản lý nguồn nhân lực của Trường Đại học Lao động Xã hội cho thấy có sự chênh lệch giới về thời gian dành cho nghỉ ngơi, giải trí, học tập và chăm sóc bản thân. Bình quân thời gian nghỉ ngơi, giải trí của các cá nhân là 4,82h/ngày, trong đó nam giới có thời gian dành cho nghỉ ngơi, giải trí là 5,52h/ngày, nhiều hơn nữ giới là 1,3h/ngày. Ngoài ra, khoảng cách giới trong đào tạo chuyên 52 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 37 (04-2019) môn kỹ thuật còn khá lớn. Mặc dù tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên qua đào tạo của cả nam giới và nữ giới đều tăng, nhưng nữ giới có tốc độ tăng chậm hơn và đến năm 2016 mới chỉ có 18,4% lực lượng lao động nữ được đào tạo chuyên môn so với nam giới là 23,3% (hình 3). Hình 3. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo (có chứng chỉ, có bằng) theo giới tính, 2008-2016 Sự chia sẻ trách nhiệm mất cân xứng đối với công việc chăm sóc, nghiêng về nữ giới dẫn đến họ không có nhiều thời gian để nâng cao trình độ. Hậu quả là khoảng cách trong đào tạo chuyên môn kỹ thuật giữa nam giới và nữ giới còn lớn. Việc khuyến khích bó hẹp công việc của phụ nữ trong phạm vi gia đình khiến các gia đình ít đầu tư cho việc học hành của con gái hay đào tạo cho phụ nữ hơn. Điều này hạn chế tính năng động của phụ nữ và trẻ em gái, hạn chế lựa chọn nghề nghiệp, nhất là việc làm ngoài phạm vi gia đình. Sự chia sẻ trách nhiệm mất cân xứng đối với công việc chăm sóc không được trả công làm cho nữ giới “nghèo” thời gian để thực hiện các quyền con người cơ bản của mình như nghỉ ngơi, giải trí và học tập. 3.2.5. Công việc chăm sóc không được trả công ảnh hưởng đến việc tham gia lãnh đạo, quản lý Nghiên cứu “Đánh giá giới ở Việt Nam” của Ngân hàng thế giới (2011) chỉ ra rằng, công việc chăm sóc không được trả công là nguyên nhân cơ bản, gây rào cản nữ giới tham gia vào quản lý lãnh đạo. Bởi vì vị trí này đòi hỏi họ phải dành nhiều thời gian, sức lực và cả trí tuệ, có nghĩa là họ sẽ có ít thời gian hơn dành cho các công việc gia đình. Nếu nam giới không ủng hộ, không chia sẻ công việc chăm sóc không được trả công thì cơ hội thăng tiến của nữ giới là rất thấp. Trên thế giới phụ nữ chỉ nắm giữ 22,0% các vị trí lãnh đạo cấp cao, và 32,0% doanh nghiệp không có bất kỳ vị trí quản lý nào là phụ nữ [7]. Ở Việt Nam, tỷ lệ nữ tham gia vào Quốc hội chỉ đạt 26,72% nhiệm kỳ 2016-2021, chưa thể đến gần mục tiêu “tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ 2016-2021 trên 35%” được nêu trong “Chiến lược quốc gia về Bình đẳng giới 2011-2020”. Trong lĩnh vực kinh doanh, nữ giới chỉ chiếm khoảng 1/4 trong tổng số chủ/giám đốc doanh nghiệp trong cả giai đoạn 2000-2016 [5]; trong lĩnh vực nông nghiệp, chỉ có 8,64% chủ các trang trại là nữ [1]. 4. Kết luận và khuyến nghị Kết quả của chúng tôi cho thấy phụ nữ phải dành nhiều thời gian cho công việc chăm sóc không được trả công nhiều hơn, hệ quả là so với nam giới họ có trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hơn, tiền lương kiếm được thấp hơn, dành ít thời gian hơn cho công việc được trả lương và nghỉ ngơi, đồng thời cơ hội đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo, quản lý cũng thấp hơn. Những khác biệt này có lợi hơn cho nam giới bởi ngay cả những phụ nữ làm việc toàn thời gian cũng không cân đối được việc nhà và chăm sóc con cái một cách hợp lý. Ngược lại, đàn ông được hưởng lợi cả trực tiếp từ vai trò chính của họ là trụ cột thông qua mức lương cao hơn và gián tiếp thông qua nhiều thời gian nghỉ ngơi hơn. Tương tự, nam giới được hưởng lợi về mặt kinh tế từ sự phân chia giới tính của các vai trò xã hội. Sự tồn tại kéo dài của chuẩn mực xã hội coi những công việc chăm sóc không được trả công là công việc của nữ giới và chính sự phân công không cân đối công việc không được trả công trong gia đình là một trong những biểu hiện dai dẳng nhất của bất bình đẳng giới. Đây được coi là một thứ “thuế” đối với thời gian của nữ giới, kéo theo tình trạng họ luôn “nghèo về thời gian”. Để giảm thiểu công việc chăm sóc không được trả công đối với nữ giới, cần: Thứ nhất, thúc đẩy truyền thông thay đổi nhận thức về trách nhiệm chia sẻ công việc chăm sóc không được trả công giữa các thành viên trong gia đình; Thứ hai, tăng cường hoạt động giáo dục đào tạo và cơ chế khuyến khích nữ giới tham gia vào nhiều ngành nghề khác nhau; Thứ ba, cải thiện cơ sở hạ tầng và tăng cường các dịch vụ cơ bản như dịch vụ giáo dục, y tế, chăm 53 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 37 (04-2019) sóc người cao tuổi có thể làm giảm đáng kể số lượng thời gian cần thiết cho công việc chăm sóc không được trả công. Việc giảm nhẹ công việc gia đình sẽ mang lại nhiều cơ hội cho phụ nữ tham gia vào các hoạt động thị trường./. Tài liệu tham khảo [1]. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Báo cáo quốc gia Kết quả 15 năm thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam, Hà Nội. [2]. ILO (2015), Bình đẳng giới trong thực tiễn tuyển dụng và thăng tiến tại Việt Nam. [3]. Astrid S. Tuminez (2012), Rising to the Top: Women’s Leadership in Asia, Lee Kuan Yew School of Puplic Policy - National University of Singapore and Asia Society. [4]. Tổng cục Thống kê (2009-2017), Báo cáo điều tra lao động việc làm các năm 2008-2016, NXB Thống kê, Hà Nội. [5]. Tổng cục Thống kê (2018), Thông tin thống kê giới tại Việt Nam 2016, NXB Thống kê, Hà Nội. [6]. UNDP (1995), Human Development Report 1995, New York: Oxford University Press, USA. [7]. UNDP (2015), Tổng quan Báo cáo Phát triển con người năm 2015: Việc làm vì phát triển con người, Washington DC, USA. [8]. UN Women (2016), Tài liệu thảo luận chính sách công việc chăm sóc không lương: Những vấn đề đặt ra và gợi ý chính sách cho Việt Nam, Cơ quan Liên Hợp Quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho Phụ nữ (UN Women), Hà Nội. [9]. Ủy ban Quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ (2004), Hướng dẫn lồng ghép giới trong hoạch định và thực thi chính sách, Hướng tới bình đẳng giới ở Việt Nam thông qua chu trình chính sách quốc gia có trách nhiệm giới, Dự án VIE 01-015-01, Giới trong chính sách công, NXB Phụ nữ, Hà Nội. [10]. Worldbank (2018), “Labor force, female (% of total labor force)”, https://data.worldbank.org/ indicator/SL.TLF.TOTL.FE.ZS. RELATIONSHIP BETWEEN UNPAID CARE WORK AND GENDER EQUALITY IN VIET NAM Summary Studies show that in Viet Nam women spend nearly 1.5 times unpaid care compared to men. This is a cost-effective and indispensable activity for the functioning of society and of human life. However, unequal division in family responsibility prone to women leads them to have limited choice and opportunity to partake in activities more meaningful to them; therefore increasing gender inequality. That is the participation in the workforce, in paid-employment market, political life, pastime, recreation and study. On analyzing the current status of women's unpaid care work and its effects on their development, the paper proposes recommendations to reduce women's unpaid care work to promote gender equality in Vietnam. Keywords: Unpaid care work, gender equality, gender inequality. Ngày nhận bài: 26/11/2018; Ngày nhận lại: 13/02/2019; Ngày duyệt đăng: 05/3/2019.
File đính kèm:
- moi_quan_he_giua_cong_viec_cham_soc_khong_duoc_tra_cong_voi.pdf