Module/subject teaching quality assessment tool

Abstract: In this article, teaching quality assessment by subject/module is quantified

through 4 functions: end-of-subject/module exam score; the student’s feedback; the

implementation of rules and regulations; and the student’s attendance. In applying this

toolkit, coefficients of these functions can be changed depending on specific

school contexts.

Module/subject teaching quality assessment tool trang 1

Trang 1

Module/subject teaching quality assessment tool trang 2

Trang 2

Module/subject teaching quality assessment tool trang 3

Trang 3

Module/subject teaching quality assessment tool trang 4

Trang 4

Module/subject teaching quality assessment tool trang 5

Trang 5

Module/subject teaching quality assessment tool trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 6040
Bạn đang xem tài liệu "Module/subject teaching quality assessment tool", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Module/subject teaching quality assessment tool

Module/subject teaching quality assessment tool
ity Assessment Tool 
Khong Huu Luc1,*, Le Duc Ngoc2, Tran Xuan Ngoc1 
1Centre for Educational Testing and Quality Assurance, 
Hanoi Vocational College of High Technology, Tay Mo, Nam Tu Liem, Hanoi, Vietnam 
 2VNU University of Education, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
Received 16 November 2018 
Revised 28 November 2018; Accepted 11 December 2018 
Abstract: In this article, teaching quality assessment by subject/module is quantified 
through 4 functions: end-of-subject/module exam score; the student’s feedback; the 
implementation of rules and regulations; and the student’s attendance. In applying this 
toolkit, coefficients of these functions can be changed depending on specific 
school contexts. 
Keywords: Assessment, teaching quality assessment, function. 
*
_______ 
* Corresponding author. 
 E-mail address: luckh@hht.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4185 
VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 78-83 
79 
Công cụ đánh giá chất lượng giảng dạy 
của giảng viên qua từng mô đun/môn học 
Khổng Hữu Lực1,*, Lê Đức Ngọc2, Trần Xuân Ngọc1 
1Trung tâm Khảo thí và Đảm bảo chất lượng, Trường Cao đẳng nghề Công nghệ cao Hà Nội, 
Phường Tây Mỗ, Quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam 
2Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 16 tháng 11 năm 2018 
Chỉnh sửa ngày 28 tháng 11 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 11 tháng 12 năm 2018 
Tóm tắt: Đánh giá chất lượng giảng dạy giảng viên qua từng mô đun/môn học được 
lượng hóa thông qua 4 hàm: điểm thi kết thúc từng mô đun/môn học; ý kiến phản hồi của 
người học; việc thực hiện các nội quy, quy định; sĩ số sinh viên tham gia học. Trong quá 
trình áp dụng bộ công cụ này, có thể thay đổi hệ số của các hàm trên cho phù hợp với 
từng nhà trường/chương trình đào tạo, trong từng bối cảnh khác nhau. 
Từ khóa: Đánh giá, đánh giá chất lượng giảng dạy, hàm giá trị. 
Chất lượng giảng dạy thể hiện thành quả đạt 
được của người học so với mục tiêu đào tạo; 
mức độ đáp ứng của người thầy so với các quy 
định của nhà trường; sự hài lòng từ phía người 
sử dụng lao động cũng như người học về mô 
đun/môn học (MĐ/MH) nào đó [1].* 
Đánh giá chất lượng giảng dạy qua từng mô 
MĐ/MH với mục đính chính: lượng hóa được 
giá trị lao động của giảng viên; là cơ sở cho 
việc bồi dưỡng và nâng cao trình độ của giảng 
viên theo đặc thù của từng nhà trường; tạo động 
lực để giảng viên làm tốt hơn nữa và hoàn thiện 
chính mình [2]. 
_______ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: luckh@hht.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4185 
1. Thực trạng về đánh giá chất lượng giảng 
dạy giảng viên 
Việc đánh giá chất lượng giảng viên thường 
được các nhà trường thực hiện đánh giá theo 
tháng, theo kỳ hoặc theo năm. Quá trình đánh 
giá chú trọng đến thành tích: số giải sinh viên 
(SV) thi olympic, thi tay nghề giỏi, kết quả thi 
giáo viên dạy giỏi, các loại giấy khen, bằng 
khen,  tức là, chỉ quan tâm đến thành tích 
cuối cùng, ít tính đến quá trình thậm chí chỉ tính 
đến quá trình nếu giảng viên đó vi phạm (vô 
hình trung dẫn đến bệnh thành tích ngay trong 
cả đội ngũ giảng viên) và cuối cùng là việc bỏ 
phiếu với không ít những cảm tính, trong khi đó 
K.H. Luc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 78-83 
80 
mọi đánh giá chất lượng công việc trong bối 
cảnh hiện nay đang hướng tới việc lượng hóa. 
Thực tế cũng cho thấy việc đánh giá chất 
lượng giảng dạy hiện nay tại các nhà trường 
còn thiếu khánh quan, chưa thực sự công bằng 
[3], chủ yếu là định tính, ít được định lượng. 
Các tiêu chí đánh giá nhiều nhưng chưa khoa 
học, các nội dung đánh giá chất lượng khá rộng, 
nhưng không chi tiết, không thiết thực so với 
công việc chính của giảng viên là giảng dạy. Do 
vậy, kết quả đánh giá không sát với thức tế nên 
không gắn vào để định mức giá trị lao động cho 
giảng viên, cụ thể trên một số phương diện sau: 
- Kết quả thi là mức độ đạt được của sinh 
viên so với mục tiêu của MĐ/MH, nó phản ánh 
chất lượng giảng dạy của giảng viên thông qua 
kết quả bài thi của sinh viên. Ở bậc học giáo 
dục phổ thông, kết quả học tập của học sinh 
cũng là một trong những căn cứ để đánh giá xếp 
loại giáo viên cuối năm học. Ở bậc cao đẳng và 
đại học thì chất lượng trong giảng dạy được 
phản ánh qua các bài kiểm tra, đặc biệt là bài thi 
kết thúc MĐ/MH (chiếm tỉ trọng 60% điểm xếp 
loại của cả MĐ/MH), chưa được áp dụng để 
đánh giá giảng viên dưới bất cứ một hình thức 
nào, mặc dù kết quả này cũng là một dạng 
thang đo và về chất lượng giảng dạy mà giảng 
viên đạt được. 
- Ý kiến phản hồi của sinh viên sau khi kết 
thúc MĐ/MH phản ánh được mức độ hài lòng 
của sinh viên đối với hoạt động giảng dạy. 
Thực tế, đã có một số nhà trường tiến hành lấy 
ý kiến phản hồi của sinh viên, xong các kết quả 
thu được cũng chỉ mang tính tham khảo và nhắc 
nhở giảng viên (nếu để xẩy ra một điều bất 
thường nào). Một số nhận đinh cho rằng các kết 
quả này không phản ánh đúng về giảng viên, vì 
phần nhiều SV nhận xét là cảm tính [4], nên kết 
quả không thể mang ra để đánh giá và xếp loại 
giảng viên được. Trong khi đó, hầu hết các 
nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới 
như: Mỹ, Anh, Đức, Nhật Bản, Trung Quốc,  
họ đều cho rằng “Ý kiến hản hồi của sinh viên” 
là một phần nội dung quan trọng trong việc 
đánh giá chất lượng của giảng viên giảng dạy 
trực tiếp các MĐ/MH. 
- Việc thực hiện các nội quy quy định của 
giảng viên về việc chấp hành các quy định của 
nhà trường, như: hồ sơ giảng dạy (giáo án, sổ 
lên lớp, ), việc chấp hành giờ giấc ra vào lớp, 
các quy định về hội họp, báo cáo,  đóng góp 
một phần lớn để tạo nên chất lượng giảng dạy. 
Nếu các nội dung này được đánh giá một cách 
thường xuyên, khách quan, công bằng sẽ đem 
lại nhiều lợi ích cho SV trong quá trình tham 
gia học tập. Quan trọng là vậy, nhưng thực tế 
thì các nhà trường chưa có một công cụ nào để 
lượng hóa các nội dung đó, chưa có cách nào để 
quy đổi các nội dung đó về một con số để gắn 
vào việc đánh giá chất lượng giảng dạy của 
giảng viên. 
- Thực tế cũng cho thấy trong cùng một lớp 
học, mỗi một giảng viên khác nhau thì số lượng 
sinh viên tham gia học tập cũng khác nhau rất 
nhiều. Việc chuyên cần của sinh viên có ảnh 
hưởng rất lớn đến việc tiếp thu kiến thức, hình 
thành thái độ và tạo ra năng lực của sinh viên. 
Nếu giảng viên quản lí sĩ số không tốt, sinh 
viên nghỉ nhiều dẫn đến không theo kịp chương 
trình học, từ đó sẽ chán học dần. Đó cũng là 
nguyên nhân chính mà nhiều sinh viên các 
trường cao đẳng và đại học bỏ học hiện nay 
(sắp tới, việc đào tạo thực hiện theo hình thức 
đơn đặt hàng thì số lượng người học tính đến 
khi kết thúc khóa học là căn cứ để thanh lí hợp 
đồng). Do vậy, cũng cần phải gắn trách nhiệm 
của giảng viên trong công tác duy trì sĩ số của 
lớp học thông qua một hàm về sĩ số sinh viên 
theo từng MĐ/MH. 
Tất cả các nội dung trên là những thành tố 
cơ bản, là các tiêu chuẩn cụ thể nhất để đánh 
giá chất lượng giảng dạy của giảng viên. Vì 
vậy, cần phải lượng hóa được thông qua một bộ 
công cụ nào đó để định mức được giá trị và 
hiệu quả mà giảng viên đem lại. 
2. Bộ công cụ đánh giá chất lượng giảng dạy 
2.1. Nội dung của bộ công cụ 
- Bộ công cụ đánh giá chất lượng giảng dạy 
thông qua hàm chất lượng giảng dạy, ký hiệu 
là F. 
K.H. Luc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 78-83 81 
F(CLDH) = 
Trong đó: 
+ n, m, p, q: là các hệ số chỉ trọng số của 
4 hàm 
+ f(đtkt): điểm thi kết thúc MĐ/MH (theo 
thang điểm 10) 
+ f(ykph): ý kiến phản hồi của sinh viên sau 
khi kết thúc MĐ/MH (thông qua phiếu phản hồi 
5 mức) 
+ f(nq): việc thực hiện các nội quy các quy 
định (có quy định về mức điểm trừ đối với từng 
nội dung của nhà trường, do Hiệu trưởng 
quy định) 
+ f(ss): sĩ số sinh viên tham gia MĐ/MH 
(tính theo tỷ lệ trung bình dự học) 
+ Các hàm F, f(đtkt), f(ykph), f(nq), f(ss) 
đều trả về giá trị là số, theo thang điểm 100. 
- Các hàm f(đtkt), f(ykph), f(nq), f(ss) có 
thể thay đổi các hệ số để phù hợp với từng nhà 
trường, từng bối cảnh khác nhau trong đào tạo. 
- Các hệ số của hàm F, như: n, m, p, q tùy 
theo mức độ khác nhau, các trường có thể thay 
đổi để đạt được các mục tiêu. 
2.2. Cách xác định các thông số để tính giá trị 
cho hàm F 
a) Xác định giá trị cho hàm f(đtkt) 
Hàm f(đtkt) trả về giá trị từ điểm thi kết 
thúc MĐ/MH. Điểm thi kết thúc MĐ/MH được 
tính theo thang điểm 10 và được quy đổi về 
thang điểm 100 (của một lớp học). Xác định giá 
trị cho hàm f(đtkt) như sau: 
Điểm bài thi kết thúc MĐ/MH trên 9; được 
tính 100 điểm/01 sinh viên (1) 
Điểm bài thi kết thúc MĐ/MH trên 8; được 
tính 90 điểm/01 sinh viên (2) 
Điểm bài thi kết thúc MĐ/MH trên 7; được 
tính 80 điểm/01 sinh viên (3) 
Điểm bài thi kết thúc MĐ/MH trên 6; được 
tính 70 điểm/01 sinh viên (4) 
Điểm bài thi kết thúc MĐ/MH trên 5; được 
tính 60 điểm/01 sinh viên (5) 
Điểm bài thi kết thúc MĐ/MH trên 4; được 
tính 50 điểm/01 sinh viên (6) 
Điểm bài thi kết thúc MĐ/MH trên 3; được 
tính 40 điểm/01 sinh viên (7) 
Điểm bài thi kết thúc MĐ/MH trên 2; được 
tính 30 điểm/01 sinh viên (8) 
Điểm bài thi kết thúc MĐ/MH trên 1; được 
tính 20 điểm/01 sinh viên (9) 
Điểm bài thi kết thúc MĐ/MH nhỏ hơn 
hoặc bằng 1;được tính 10 điểm/01 sinh 
viên (10) 
f(đtkt) = 
b) Xác định giá trị cho hàm f(ykph) 
Sau khi kết thúc MĐ/MH, bộ phận độc lập 
(có thể là Trung tâm khảo thí, Đảm bảo chất 
lượng, phòng Đào tạo) tiến hành phát phiếu lấy 
ý kiến phản hồi tới sinh viên hoặc tạo tài khoản 
trên mạng để sinh viên đăng nhập vào và cung 
cấp các nhận định về MĐ/MH theo một số tiêu 
chí về các phương diện sau: 
- Phổ biến Mục tiêu môn học 
- Thực hiện Chương trình giảng dạy 
- Phương pháp giảng dạy: dạy cách học, 
hiểu bài,  
- Tài liệu học tập: đầy đủ, dễ học,  
- Hoạt động kiểm tra đánh giá: khách quan, 
công bằng, chính xác,  
Xử lý các số liệu, các phiếu hỏi này 
bằng phần mềm SPSS và thống kê các số 
liệu thu thập được. Kết quả xử lý số liệu phản 
hồi trên xử lý theo giá trị trung bình bởi công 
thức: “Giá trị khoảng” = (Maximum – 
Minimum)/n. Vì vậy, với phiếu hỏi nếu thiết kế 
có 05 mức trả lời thì “Giá trị khoảng cách” 
= (5-1)/5 = 0,8 nên có 05 mức đánh giá chính 
và được quy đổi sang thang điểm 100 như sau: 
K.H. Luc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 78-83 
82 
g 
Mức của 
nhận định 
Nội dung 
Điểm 
tương ứng 
Số lượng sinh 
viên phản hồi (%) 
Điểm quy đổi 
thang 100 
(1) (2) (3) (4) (5) 
Mức 1 Yếu 1,00 – 1,8 a 20 
Mức 2 Không đạt 1,81 – 2,60 b 40 
Mức 3 Đạt 2,61 – 3,40 c 60 
Mức 4 Tốt 3,41 – 4,20 d 80 
Mức 5 Rất tốt 4,21 – 5,00 e 100 
O 
Giải thích 
(1) Các mức nhận định của sinh viên; 
(2) Tương ứng với mức nhận định phân ra 5 
loại nhận định: Yếu (hoàn toàn không đồng ý), 
Không đạt (không đồng ý); Đạt (bình thường); 
Tốt (đồng ý); Rất tốt (hoàn toàn đồng ý) 
(3) Mỗi một phiếu lấy ý kiến, tiến hành tính 
trung bình cộng của các nhận định, được kết 
quả nằm trong khoảng giá trị ở cột (3) 
(4) Là số lượng SV có mức nhận định 
tương ứng với mức điểm ở cột (3), tạm tính là 
a, b, c, d, e 
(5) Điểm quy đổi sang thang 100 của một 
phiếu nhận định 
Hàm f(ykph) được xác định như sau: 
f(ykph) = 
c) Xác định giá trị cho hàm f(nq) 
Hàm f(nq) đánh giá về việc thực hiện các 
nội quy quy định, nội quy giảng viên cần thực 
hiện bào gồm: 
- Thực hiện nội quy, quy chế của từng nhà 
trường, như: giờ giấc lên lớp, trang phục,  
- Thực hiện quy đinh về chuyên môn, như: 
hồ sơ giảng dạy, tiến độ giảng dạy, quy định về 
đồ dùng, phương tiện giảng dạy, ... 
 Các quy định được cụ thể hóa bằng các văn 
bản, nếu giảng viên vi phạm tính bằng thang 
điểm trừ. Tức là, lấy 100 trừ đi các lỗi vi phạm, 
mỗi lỗi vi phạm trừ bao nhiêu điểm tùy thuộc 
vào từng nhà trường 
f(nq) = 100 - tổng điểm tương ứng với các 
lỗi vi phạm 
Bảng tham khảo về mức điểm trừ áp dụng 
cho hàm f(nq) 
l 
Mức 
điểm 
trừ 
10 20 30 30 50 20 30 30 10 30 
Nội 
quy 
Sử 
dụng 
điện 
thoại 
trong 
giờ 
dạy 
Không 
đảm 
bảo vệ 
sinh 
ngăn 
nắp nơi 
dạy học 
Đến 
muộn, 
về sớm 
trong 
hoạt 
động 
giảng 
dạy 
Vắng 
mặt ở 
lớp 
trong 
giờ 
dạy 
Bỏ 
giờ 
giảng 
dạy 
Sử dụng 
lãng phí 
tài sản, 
vật tư, 
điện 
nước 
Thiếu 
tài liệu 
giảng 
dạy 
theo 
quy 
định 
Ghi 
chép 
không 
đầy đủ 
vào các 
sổ theo 
quy 
định 
Để SV 
ngủ, nằm 
ra bàn 
học, làm 
việc riêng 
trong giờ 
học 
Để SV 
vi 
phạm 
quy chế 
thi 
i 
j
Ghi chú 
- Mức điểm trừ: Tùy thuộc vào đặc thù của 
từng nhà trường, Hiệu trưởng quy định mức 
điểm trừ cho phù hợp 
- Nội quy: Hiệu trưởng tổ chức xây dựng và 
phê duyệt các nội dung về nội quy của 
nhà trường 
d) Cách xác định giá trị cho hàm f(ss) 
Một bộ phận chuyên trách của nhà trường 
thường xuyên đi lấy sĩ số, đảm rằng mỗi 
MĐ/MH được lấy sĩ số ít nhất 03 lần, sau đó 
tính trung bình số lượng SV có mặt ở lớp. Sĩ số 
trung bình này được quy ra thang điểm 100 theo 
nguyên tắc tỉ lệ thuận. 
f(ss) = (100* sĩ số trung bình của 03 lần 
kiểm tra)/(sĩ số ấn định của lớp)*10 
K.H. Luc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 78-83 83 
3. Định hướng triển khai áp dụng 
- Tổ chức xây dựng và đồng thuận các qui 
tắc xác định các thông số hàm f(đtkt), f(ykph), 
f(nq), f(ss) phải phù hợp với thực tế từng nhà 
trường, cập nhật bổ sung các thông số nếu thấy 
cần thiết. Đặc biệt, không nhất thiết phải áp 
dụng đồng thời 4 hàm: bước đầu nên áp dụng 
từng hàm một, sau đó gia tăng số lượng các 
hàm (các thông số nên tham khảo một số nội 
dung trong Quy định chuẩn chuyên môn nghiệp 
vụ đối với giảng viên). 
- Nhà trường có thể giao cho một bộ phận 
chuyên trách để tổng hợp tất cả các giá trị hàm 
F của từng MĐ/MH, công việc tổng hợp này 
nên tin học hóa bằng các phần mềm thống kê để 
giảm bớt nhân lực và đảm bảo độ chính xác cao 
cũng như tăng tính công bằng, khách quan. 
- Chất lượng giảng dạy của giáo viên theo 
từng MĐ/MH được quy ra thang điểm 100, đây 
là cơ sở để tính mức giờ chuẩn (với hệ số tùy 
vào từng nhà trường) hoặc là cơ sở để tính 
lương cho giáo viên tỉ lệ thuận với mức điểm 
của hàm F. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Lê Đức Ngọc, Giáo dục đại học - Quan điểm và giải 
pháp, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004. 
[2] Carnegie Mellon University, website: 
[3] Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Phương Nga, Nghiên 
cứu xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động 
giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học của 
giảng viên trong Đại học Quốc gia Hà Nội, Báo 
cáo nghiệm thu Đề tại trọng điểm cấp Đại học 
Quốc gia Hà Nội, 2006. 
[4] Theall, Michael, Franklin, Jennifer, Eds, Student 
ratings of instruction: Issues for improving 
practice, New directions in teaching and learning, 
Jossey-Bass Inc. 43 (1990) 17-34. 

File đính kèm:

  • pdfmodulesubject_teaching_quality_assessment_tool.pdf