Mô hình hóa cơ chế dẫn điện của vật liệu polyetylen mật độ thấp bằng phương pháp phần tử hữu hạn
Polyme được sử dụng như vật liệu cách điện ngày càng phổ biến trong nhiều lĩnh vực ứng dụng khác nhau. Trong
kỹ thuật điện - điện tử, polyme được sử dụng trong cáp truyền tải điện cao áp, tụ điện, máy biến áp hoặc được sử
dụng như là một bộ phận của hệ thống nhúng trong mô đun IGBT nhờ các đặc tính nhiệt và cách điện vượt trội.
Một trong những nhược điểm của polyme là chúng tích trữ các điện tích không gian trong một thời gian dài, dẫn
đến sự gia tăng của điện trường so với giá trị thiết kế ban đầu. Các mô hình nghiên cứu cơ chế dẫn điện của vật liệu
polyme ngày càng được phát triển để có thể dự đoán được cơ chế dẫn điện dưới ứng suất nhiệt - điện. Trong nghiên
cứu này, từ mô hình số theo phương pháp thể tích hữu hạn (FVM), nhóm tác giả đã phát triển xây dựng mô hình cơ
chế dẫn điện của vật liệu polyetylen mật độ thấp (LDPE) dựa vào phương pháp phần tử hữu hạn (FEM). Kết quả
mô phỏng của mô hình này cũng được so sánh, đánh giá với kết quả thực nghiệm và của mô hình số FVM dưới tác
động của những điện trường khác nhau đặt trên vật liệu polyetylen mật độ thấp.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình hóa cơ chế dẫn điện của vật liệu polyetylen mật độ thấp bằng phương pháp phần tử hữu hạn
(điện tử tự do và lỗ trống tự do) 0 Hệ số bẫy B e electrons 0,1 s-1 Bh holes 0,2 s -1 Sự di chuyển Điện tích 1,0.10-14 m2V-1s-1 Lỗ trống 2,0.10-13 m2V-1s-1 Mật độ bẫy sâu N oet của điện tích 100 Cm-3 N oht của lỗ trống 100 Cm-3 Mức năng lượng rào cản cho tiêm điện tích theo Schottky w ei của điện tích 1,27 eV w hi của lỗ trống 1,16 eV Độ lớn năng lượng rào cản của bẫy (detrapping) w tre của điện tích 0,96 eV w trh của lỗ trống 0,99 eV Mật độ điện tích ban đầu ρ eµ (t=0) của điện tích -0,5 Cm-3 ρ hµ (t=0) lỗ trống 0,5 Cm-3 Trong quá trình tính toán mô phỏng của mô hình này có xem xét đến việc tiêm điện tích từ 2 điện cực theo kiểu Schottky sửa đổi, sự di chuyển của điện tích được mô hình hóa bằng sự di chuyển liên tục có tính đến mức độ của bẫy, sự khuếch tán điện tích và sự kết hợp điện tích trái dấu theo thời gian. Do vậy, kết quả về sự phân bố điện tích không gian, điện dẫn hay phân bố điện trường trong vật liệu được mô tả rõ ràng hơn. 30 Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ 63(1) 1.2021 Kết quả mô phỏng Kết quả quan trọng thu được từ mô hình hóa điện dẫn của vật liệu LDPE gồm: mật độ điện tích không gian phụ thuộc vào thời gian và độ dày của vật liệu; dòng điện trong vật liệu theo thời gian; tốc độ kết hợp theo độ dày điện môi; mật độ của từng loại điện tích (electron, lỗ trống, bẫy), từng loại kết hợp (S 0 , S 1, S 2 , S 3 ), điện trường Dưới điện trường đặt 40 kV/mm, sự phân bố điện tích không gian theo thời gian trong vật liệu LDPE theo bảng màu được thể hiện ở hình 2. Bảng màu thể hiện mật độ điện tích từ -10 đến 10 Cm-3, tương ứng với độ dày vật liệu từ cathode đến anode (từ 0 đến 150 µm). Quan sát thấy, hiện tượng điện tích đồng nhất ở điện cực anode. Điện tích dương xuất hiện với mật độ lớn tại anode, từ từ di chuyển lan dần vào trong khối vật liệu và có xu hướng di chuyển đến cathode. 8 Hình 2. Phân bố điện tích không gian theo bảng màu trong khối điện môi theo thời gian và độ dày dưới tác dụng của điện trường đặt 40 kV/mm. Điện trường thay đổi theo thời gian cũng có thể được tính toán ở các điện trường đặt khác nhau (hình 3). Sau gần 3h (10000s), chỉ có sự thay đổi điện trường ở anode, còn sự thay đổi điện trường trong khối điện môi gần như không đáng kể dưới điện trường đặt là 10 kV/mm (hình 3A). Tuy nhiên khi điện trường tăng lên tới 60 kV/mm, điện trường trong khối điện môi ở gần điện cực cathode có xu hướng tăng dần do sự xuất hiện điện tích không gian với mật độ lớn trong khối điện môi (hình 3B). (A) (B) Hình 3. Sự phân bố điện trường trong khối điện môi theo thời gian dưới tác động của điện trường đặt là 10 kV/mm (A) và 60 kV/mm (B). Hình 2. Phân bố điện tích không gian theo bảng màu trong khối điện môi theo thời gian và độ dày dưới tác dụng của điện trường đặt 40 kV/mm. Điện trường thay đổi theo thời gian cũng có thể được tính toán ở các điện trường đặt khác nhau (hình 3). Sau gần 3h (10000s), chỉ có sự thay đổi điện trường ở anode, còn sự thay đổi điện trường tron khối điện môi gần như không đáng kể dưới điện trường đặt là 10 kV/mm (hình 3A). Tuy nhiên khi điện trường tăng lên tới 60 kV/mm, điện trường trong khối điện môi ở gần điện cực cathode có xu hướng tăng dần do sự xuất hiện điện tích không gian với mật độ lớn trong khối điện môi (hình 3B). (A) (B) Hình 3. Sự phân bố điện trường trong khối điện môi theo thời gian dưới tác động của điện trường đặt là 10 kV/mm (A) và 60 kV/mm (B). Mật độ dòng điện cũng là một thông số quan trọng liên quan đến sự xuất hiện điện tích không gian trong vật liệu. Dưới tác động của các giá trị điện trường đặt khác nhau, mật độ dòng điện phân bố trong khối điện môi thay đổi theo thời gian được thể hiện trong hình 4. Mật độ dòng điện có xu hướng giảm nhanh ở thời gian đầu khi đặt điện áp, sau đó giảm dần theo thời gian để đạt giá trị ổn định. Ở điện trường 10 kV/mm, sau 10000s dòng điện chưa đạt giá trị ổn định, tuy nhiên khi điện trường tăng lên 40 và 60 kV/mm, dòng điện gần như không thay đổi và đạt giá trị ổn định trong khoảng thời gian 3.103s. 31 Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ 63(1) 1.2021 9 Mật độ dòng điện cũng là một thông số quan trọng liên quan đến sự xuất hiện điện tích không gian trong vật liệu. Dưới tác động của các giá trị điện trường đặt khác nhau, mật độ dòng điện phân bố trong khối điện môi thay đổi theo thời gian được thể hiện trong hình 4. Mật độ dòng điện có xu hướng giảm nhanh ở thời gian đầu khi đặt điện áp, sau đó giảm dần theo thời gian để đạt giá trị ổn định. Ở điện trường 10 kV/mm, sau 10000s dòng điện chưa đạt giá trị ổn định, tuy nhiên khi điện trường tăng lên 40 và 60 kV/mm, dòng điện gần như không thay đổi và đạt giá trị ổn định trong khoảng thời gian 3.103s. Hình 4. Mật độ dòng điện theo thời gian ở các điện trường đặt khác nhau. Xác thực mô hình Kết quả mô phỏng từ phương pháp FEM tính toán qua phần mềm Comsol Multiphysic được so sánh với kết quả đo thực nghiệm bằng phương pháp PEA (Pulse electro acoustic) và mô hình tính toán bằng phương pháp FVM [12]. Ở cả 2 mô hình, mật độ điện tích ban đầu của điện tích dương và âm tương ứng ở 10 kV/mm là 0,1 Cm-3, ở 40 và 60 kV/mm là 0,5 Cm-3. Điện tích không gian Sự phân bố điện tích không gian trong khối điện môi bằng thực nghiệm - phương pháp FVM (khi có điện trường đặt, sau đó điện trường trở về 0) và FEM (chỉ thể hiện ở trạng thái khi có điện trường đặt) được thể hiện trong hình 5. Hình 4. Mật độ dòng điện theo thời gian ở các điện trường đặt khác nhau. Xác thực mô hình Kết quả mô phỏng từ phương pháp FEM tính toán qua phần mềm Comsol Multiphysic được so sánh với kết quả đo thực nghiệm bằng phương pháp PEA (Pulse electro acoustic) và mô hình tính toán bằng phương pháp FVM [12]. Ở cả 2 mô hình, mật độ điện tích ba đầu của điện tích dương và âm tương ứng ở 10 kV/mm là 0,1 Cm-3, ở 40 và 60 kV/mm là 0,5 Cm-3. Điện tích k ông gian Sự phân bố điện tích không gian trong khối điện môi bằng thực nghiệm - phương pháp FVM (khi có điện trường đặt, sau đó điện trường trở về 0) và FEM (chỉ thể hiện ở trạng thái khi có điện trường đặt) được thể hiện trong hình 5. Kết quả thực nghiệm cho thấy, ở điện trường đặt 10 kV/ mm, không quan sát thấy có điện tích không gian trong khối điện môi. Khi tăng điện trường, điện tích dương (màu đỏ) được quan sát thấy xuất hiện ở anode, di chuyển dần dần qua khối điện môi đến điện cực cathode trong khoảng 100s. Phần lớn vật liệu LDPE sau đó được tích điện dương cho đến khi kết thúc bước phân cực. Sự gia tăng của điện trường làm sự gia tăng mật độ điện tích. Sau khi điện trường về 0, các điện tích dương biến mất, thời gian biến mất tăng khi điện trường đặt tăng. Khi so sánh với kết quả mô phỏng theo phương pháp FEM với phương pháp FVM và thực nghiệm với 3 mức điện trường đặt khác nhau cho thấy mô hình có thể tái hiện hầu hết các đặc điểm được nêu bật trong thí nghiệm, tức là sự thống trị của các điện tích dương, thời gian vận chuyển và mật độ điện tích không gian trong điện môi. Trong quá trình phân cực, các mô hình mô phỏng có thể so sánh với các mẫu thử nghiệm, cho các điện trường 10 và 40 kV/mm. Tuy nhiên, đối với điện trường 60 kV/mm, lượng điện tích mô phỏng bên trong chất điện môi cao hơn so với thí nghiệm. Hơn nữa, các điện tích âm (màu xanh) được quan sát bên cạnh cực âm cho các trường cao hơn này. Điều này mâu thuẫn với những gì được quan sát bằng thực nghiệm. Sự gia tăng mật độ điện tích không gian ở điện trường cao và sự hiện diện của điện tích âm bên trong khối có thể được liên hệ với việc tạo ra các điện tích ở các điện cực. So sánh giữa 2 phương pháp mô phỏng, phương pháp FEM có sự gia tăng điện tích ở thời gian đầu nhanh hơn so với phương pháp FVM, nguyên nhân do bước thời gian tính toán bởi FEM nhỏ hơn rất nhiều so với FVM nên thể hiện sự gia tăng điện tích phân bố rõ ràng hơn. Hình 5. Phân bố điện tích không gian theo hàm thời gian và độ dày của điện môi ở điện trường đặt 10, 40, 60 kV/mm thu được khi tiến hành thực nghiệm - mô phỏng bằng FVM - mô phỏng bằng FEM. 10 Eđặt Thực nghiệm (Experiment) Mô phỏng bằng FVM (Simulation FVM) Mô phỏng bằng FEM (Simulation FEM) 10 (kV/mm) 40 (kV/mm) 60 (kV/mm) Hình 5. Phân bố điện tích không gian theo hàm thời gian và độ dày của điện môi ở điện trường đặt 10, 40, 60 kV/mm thu được khi tiến hành thực nghiệm - mô phỏng bằng FVM - mô phỏng bằng FEM. Kết quả thực nghiệm cho thấy, ở điện trường đặt 10 kV/mm, không quan sát thấy có điện tích không gian trong khối điện môi. Khi tăng điện trường, điện tích dương (màu đỏ) được quan sát thấy xuất hiện ở anode, di chuyển dần dần qua khối điện môi đến điện cực cathode trong khoảng 100s. Phần lớn vật liệu LDPE sau đó được tích điện dương cho đến khi kết thúc bước phân cực. Sự gia tăng của điện trường làm sự gia tăng mật độ điện tích. Sau khi điện trường về 0, các điện tích dương biến mất, thời gian biến mất tăng khi điện trường đặt tăng. Khi so sánh với kết quả mô phỏng theo phương pháp FEM với phương pháp FVM và thực nghiệm với 3 mức điện trường đặt khác nhau cho thấy mô hình có thể tái hiện hầu hết các đặc điểm được nêu bật trong thí nghiệm, tức là sự thống trị của các điện tích dương, thời gian vận chuyển và mật độ điện tích không gian trong điện môi. Trong quá trình phân cực, các mô hình mô phỏng có 32 Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ 63(1) 1.2021 Mật độ dòng điện Dưới điều kiện mô phỏng và thí nghiệm như nhau, sự phân bố mật độ dòng điện trong khoảng thời gian đặt điện trường (10 và 60 kV/mm) được thể hiện trong hình 6. Trong mỗi điện trường đặt, kết quả thí nghiệm cho thấy dòng điện giảm dần nhưng chưa đạt trạng thái ổn định sau 3h phân cực. Bên cạnh đó còn xuất hiện độ dốc của đường cong cho thấy sự thay đổi trong cơ chế chi phối của dòng điện tích. Sự thay đổi độ dốc này xảy ra sớm hơn khi điện trường đặt cao hơn, tạo ra hiện tượng phụ thuộc vào trường. Độ dốc đầu tiên này có thể được giải thích bằng sự phân cực của các lưỡng cực bên trong khối. Ngay cả khi PE thể hiện sự phân cực yếu, nhưng cơ chế phân cực vẫn chiếm ưu thế trong thời gian ngắn và là hàm của điện trường trong LDPE. Độ dốc thứ hai của các đường cong thí nghiệm tương ứng với việc di chuyển các điện tích. Đối với kết quả mô phỏng theo phương pháp FVM và FEM, ở 10 kV/mm dòng điện cũng chưa đạt giá trị ổn định. Tuy nhiên, khi điện trường tăng đến 40 và 60 kV/mm, dòng điện mô phỏng đã đạt trạng thái ổn định sau khoảng thời gian 3.103s nhưng mô phỏng không thể thể hiện các đường cong thử nghiệm trong thời gian ngắn, vì các cơ chế phân cực không được tính đến trong mô hình. Tuy nhiên, việc bổ sung mật độ điện tích ban đầu trong mô phỏng cho phép có được sự thay đổi độ dốc trong mật độ dòng mô phỏng, do sự thay đổi của cơ chế dẫn (tức là độ dốc thứ nhất: dòng điện do sự vận chuyển của điện tích ban đầu). Mặc dù có sự bổ sung mật độ ban đầu của điện tích, có một chút khác biệt giữa thí nghiệm và mô phỏng trong thời gian ngắn. So sánh giữa 2 hình thức mô phỏng, phương pháp FEM thể hiện giá trị dòng điện ban đầu gần hơn với phương pháp FVM do bước thời gian tính toán và cơ chế vận chuyển điện tích ban đầu của phương pháp FEM rõ ràng hơn. Kết luận Mô hình được phát triển cung cấp kết quả chấp nhận được của điện tích không gian, điện trường và dòng điện. Một mối tương quan giữa phép đo thí nghiệm, mô phỏng theo phương pháp FVM và FEM đã được so sánh. Sự ưu việt của mô hình mô phỏng theo phương pháp FEM đã được thể hiện rõ nét ở thời gian ban đầu so với phương pháp FVM. Tuy nhiên, mô hình không thể thể hiện hoàn toàn tất cả các cơ chế của quá trình dẫn một cách chính xác như trong thực nghiệm. Điều này được giải thích bởi các giả (B) Hình 6. Mật độ dòng điện theo thời gian của thực nghiệm, phương pháp FVM và phương pháp FEM ở điện trường 10 kV/mm (A) và 60 kV/ mm (B). (A) thuyết vật lý của mô hình, đặc biệt là việc tạo ra điện tích (tức là tiêm vào các điện cực), không được mô tả trong mô hình. Kết quả của nghiên cứu này là tiền đề để xây dựng và xác thực mô hình vận chuyển điện tích trong không gian 2D bằng phương pháp phần tử hữu hạn với sự trợ giúp của phần mềm Comsol Multiphysic. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] T. Fukuda (1988), “Technological progress in high-voltage XLPE power cables in Japan”, IEEE Electrical Insulation Magazine, 4, pp.9-16. 33 Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ 63(1) 1.2021 [2] K. Ogawa, T. Kosugi, N. Kato, Y. Kawawata (1990), “The world’s first use of 500 kV XLPE insulated aluminium sheathed power cables at the Shimogo and Imaichi power stations”, IEEE Transactions on Power Delivery, 5, pp.26-32. [3] SIEMENS (2011), HVDC - High voltage direct current transmission, Siemens AG - Energy Sector. [4] W. Long and S. Nilsson (2007), “HVDC transmission: yesterday and today”, IEEE Power & Energy Magazine, 5(2), pp.22- 31. [5] G. Mazzanti and M. Marzinotto (2013), Extruded cables for high-voltage direct - current transmission: advances in research and development, IEEE Press-Wiley. [6] Y. Murata, et al. (2013), “Development of high voltage DC- XLPE cable system”, SEI Technical Review, 76, pp.55-62. [7] T. Mizutani, H. Semi and K. Kaneko (2000), “Space charge behavior in low-density polyethylene”, IEEE Transactions on Dielectrics and Electrical Insulation, 7(4), pp.503-508. [8] G.C. Montanari and P.H.F. Morshuis (2005), “Space charge phenomenology in polymeric insulating materials”, IEEE Transactions on Dielectrics and Electrical Insulation, 12(4), pp.754- 767. [9] J.C. Fothergill, et al. (2003), “Electrical, microstructural, physical and chemical characterization of HV XLPE cable peelings for an electrical aging diagnostic data base”, IEEE Transactions on Dielectrics and Electrical Insulation, 10(3), pp.514-527. [10] T.T.N. Vu, G. Teyssedre, S. Le Roy and C. Laurent (2017), “Space charge criteria in the assessment of insulation materials for HVDC”, IEEE Transactions on Dielectrics and Electrical Insulation, 24(3), pp.1405-1414. [11] U. Riechert, J. Kindersberger, and J. Speck (1999), “Effects of short-time voltage drops and polarity reversals on breakdown behaviour of cross-linked polyethylene”, Eleventh International Symposium on High Voltage Engineering, 4, pp.216-219. [12] S. Le Roy, G. Teyssedre, C. Laurent, G.C. Montanari and F. Palmieri (2006), “Description of charge transport in polyethylene using a fluid model with a constant mobility: fitting model and experiments”, J. Phys. D: Appl. Phys., 39, pp.1427-1436. [13] S. Le Roy, F. Baudoin, L. Boudou, C. Laurent, G. Teyssedre (2010), “Thermo - stimulated depolarization currents in polyethylene films. Numerical simulations and experiments”, Proceedings of the 2010 IEEE International Conference on Solid Dielectrics (ICSD), pp.1-4.
File đính kèm:
- mo_hinh_hoa_co_che_dan_dien_cua_vat_lieu_polyetylen_mat_do_t.pdf