Mô hình đánh giá hiệu quả kinh tế - sinh thái phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững trên cây lúa tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định
Trong xu thế đô thị hóa, công nghiệp hóa và gia tăng dân số tại các quốc gia
đang phát triển, hàng loạt vấn đề như ô nhiễm môi trường, suy thoái chất lượng hệ
sinh thái và suy giảm đa dạng sinh học. trở thành thách thức lớn đối với mục tiêu
phát triển bền vững [1]. Điển hình là tốc độ tăng trưởng kinh tế kéo theo chi phí phát
sinh từ quá trình hủy hoại sinh thái [2], phá hủy sự cân bằng giữa lợi ích của môi
trường và hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động sản xuất [3]. Điều này làm cho nhu
cầu duy trì “tính bền vững” của mục tiêu bảo vệ sinh thái và tăng trưởng kinh tế cũng
như đánh giá tính hiệu quả mối quan hệ đó trong thực tiễn trở nên hết sức cấp thiết.
Để thực hiện được điều đó, lý thuyết kinh tế sinh thái trở thành tiền đề cho quá
trình đánh giá tính hiệu quả khi đặt hệ thống kinh tế trong hệ thống sinh thái toàn
cầu, nhằm: (i) xác định giới hạn tự nhiên cho mục tiêu phát triển [4], (ii) phản ánh sự
phụ thuộc lẫn nhau giữa kinh tế và môi trường [5]; (iii) cho phép đánh giá theo thời
gian [6]; (iv) hướng tới giải quyết dựa trên các đánh giá tích hợp đa lĩnh vực, liên
ngành [7]. Tuy nhiên, mối quan hệ qua lại giữa đặc trưng sinh thái và kinh tế - xã
hội trong vấn đề ra quyết định phục vụ quy hoạch sản xuất tồn tại nhiều khó khăn do
mối quan hệ “hai chiều” với đặc thù đánh giá khác nhau [3], do phương án cân bằng
phải xuất phát từ những khác biệt của đối tượng được đánh giá phân bố trong không
gian [8] và thiếu phương thức chuyển đổi qua lại giữa các nhóm yếu tố đánh giá nên
không phản ánh được yếu tố chi phối kết quả tổng hợp [9]. Điều này gây khó khăn
trong việc định lượng nhiều nhóm thông tin phức tạp cũng như phản ánh chính xác
những thay đổi của kết quả đánh giá khi các yếu tố thành phần thay đổi liên tục.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình đánh giá hiệu quả kinh tế - sinh thái phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững trên cây lúa tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định
hấp từ 2-5m Địa hình thềm 5-40m Địa hình đồi cao Địa hình núi thấp trên 300m Thổ nhưỡng Pbc Xa, Ba D, M, E, Fa, Fs Cc, C Độ dốc I II - III, IV, V Thành phần cơ giới c b, d e a Khả năng đảm bảo nước tưới Rất cao Cao Trung bình Thấp 3.1.3. Xác định trọng số AHP cho các chỉ tiêu Quá trình tính toán trọng số cho cây lúa để đánh giá thích nghi sinh thái tại huyện Phù Mỹ được thực hiện trên cơ sở so sánh tầm quan trọng của 5 chỉ tiêu là độ cao địa hình, thổ nhưỡng, độ dốc, thành phần cơ giới, khả năng đảm bảo nước tưới. Việc so sánh tầm quan trọng được dựa trên bảng so sánh ma trận và tham khảo ý kiến của 30 chuyên gia trong lĩnh vực địa lý, nông nghiệp. Kết quả tính toán AHP được thể hiện ở bảng 3. Bảng 3. Trọng số các chỉ tiêu sinh thái cây lúa Chỉ tiêu Trọng số Các thông số Độ cao địa hình 0,14 - Giá trị riêng của ma trận: λmax = 5,308 - Số nhân tố n = 5 - Chỉ số ngẫu nhiên: RI = 1,12 - Chỉ số nhất quán: CI = 0,077 - Tỷ số nhất quán: CR = 0,068 Thổ nhưỡng 0,39 Độ dốc 0,26 Thành phần cơ giới 0,07 Khả năng đảm bảo nước tưới 0,13 Tổng 1,000 Chỉ số thích nghi sinh thái cây lúa: Sth = 0,14M1 + 0,39M2 + 0,26M3 + 0,07M4 + 0,13M5 Tiến hành đánh giá thích nghi thành phần theo chỉ tiêu, sau đó tổng hợp điểm theo trọng số và phân hạng thích nghi sinh thái cho cây lúa. Qua bản đồ tại hình 4 và dữ liệu tổng hợp mức độ thích nghi cho thấy, khu vực rất thích nghi (S1) cho cây lúa huyện Phù Mỹ có tổng diện tích 19687,64 ha (chiếm 37,45%), tập trung dọc hệ thống sông La Tinh với thổ nhưỡng chủ yếu là đất phù sa, độ dốc thấp và chủ động được nước tưới. Khu vực thích nghi (S2) có diện tích 15215,31 ha (chiếm 28,95%), phân bố tại thềm tích tụ với địa hình khá bằng phẳng (dốc từ 0-3o, đôi khi 3-8o); thổ nhưỡng chủ yếu là đất vàng đỏ trên đá mác ma axit Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 22, 05-2021 35 (Fa), trên đá sét và biến chất (Fs), đất xám (Xa) và một phần nhỏ là đất mặn (M); thành phần cơ giới thịt nhẹ đến sét; khả năng cấp nước tưới ổn định. Khu vực kém thích nghi (S3) có diện tích 11921,11 ha (chiếm 22,68%), phân bố chủ yếu tại những khu vực kém thuận lợi, thổ nhưỡng là đất đỏ vàng trên đá sét và đá biến chất (Fs), đất dốc tụ (D) và một phần nhỏ là đất mặn (M); khả năng chủ động tưới tiêu hạn chế. Diện tích không thích nghi (N) là những khu vực gò, đồi cao và núi thấp với những yếu tố sinh thái tới hạn hoặc gần mức tới hạn cho cây lúa sinh trưởng và phát triển. 3.2. Mô hình hóa giá trị giá trị kinh tế - xã hội cây lúa Tiến hành điều tra xã hội học (điều tra bảng hỏi) cho đối tượng là 190 nông hộ canh tác lúa trên địa bàn huyện Phù Mỹ. Phỏng vấn lãnh đạo Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Trung tâm dịch vụ nông nghiệp và lãnh đạo một số xã trồng nhiều lúa như Mỹ Trinh, Mỹ Hòa, Mỹ Hiệp. Kết quả xử lý bảng hỏi, thu được thông tin ở các mức độ khác nhau cho các chỉ tiêu kinh tế - xã hội. Theo đó, mức độ hiệu quả kinh tế - xã hội trong canh tác lúa được phân cấp và chỉ ra trong bảng 4. Bảng 4. Phân cấp các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội Mức độ hiệu quả Chỉ tiêu Rất Cao Cao Trung bình Thấp Rất thấp Giá trị sản xuất/1ha (triệu đồng) 95 - 100 90 - <95 70 - <90 50 - <70 < 50 Giải quyết lao động nông hộ (%) 90 - 100 75 - <90 60 - <75 45 - <60 < 45 Gán thông tin các chỉ tiêu và mức phân cấp hiệu quả theo vị trí các thửa đất của nông hộ canh tác, sau đó tiến hành nội suy bằng công cụ Kriging trên phần mềm ArGIS 10.4 thu được bản đồ chuyên đề hiệu quả kinh tế - xã hội tại hình 3. Từ bản đồ (hình 3) và dữ liệu phân tích kết quả điều tra về hiệu quả kinh tế - xã hội trong canh tác lúa cho thấy khu vực có hiệu quả kinh tế - xã hội của cây lúa khá cao và cao tập trung ở Tây Nam và Bắc của huyện Phù Mỹ. Đây là 2 tiểu vùng sản xuất nông nghiệp chính của huyện nhờ có nhiều điều kiện thuận lợi về tự nhiên và kinh tế - xã hội. Trên 2 tiểu vùng có thị trấn huyện, Quốc lộ 1A đi qua,... nên đã thu hút dân cư tập trung sinh sống và canh tác nông nghiệp. Tiểu vùng Tây Nam là phần chính của lưu vực sông La Tinh - lưu vực sông chính của tỉnh Bình Định. Các khu vực có hiệu quả kinh tế - xã hội thấp phần lớn do kém thuận lợi về điều kiện canh tác, chưa được đầu tư nhiều về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật. Các khu vực có hiệu quả rất thấp là những nơi không thích nghi về sinh thái, chủ yếu là nơi phân bố loại đất không phù hợp và dộ dốc lớn. 3.3. Đánh giá tích hợp kinh tế - sinh thái đối với cây lúa Trong phát triển kinh tế nông nghiệp huyện Phù Mỹ, việc xác định loại hình sử dụng đất phù hợp cho một khu vực để canh tác là hết sức ý nghĩa. Đánh giá thích nghi sinh thái cho cây lúa đã chỉ rõ mức thích nghi cho từng đơn vị đất đai, là cơ sở quan trọng nhất cho xác định không gian canh tác. Bên cạnh đó, đã điều tra hiệu quả kinh tế - xã hội tại các vùng trồng lúa hiện tại để có thêm cơ sở khẳng định sự thích hợp toàn diện cho một đơn vị đất đai. Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 22, 05-2021 36 Hình 3. Bản đồ tích hợp thích nghi sinh thái và hiệu quả kinh tế - xã hội cây lúa huyện Phù Mỹ. (a) Thích nghi sinh thái; (b) Hiệu quả kinh tế - xã hội; (c) Tích hợp hiệu quả sinh thái và kinh tế - xã hội Tích hợp kết quả đánh giá thích nghi sinh thái và hiệu quả kinh tế - xã hội được thực hiện dựa trên tổ hợp kết quả đánh giá của 2 nhóm chỉ tiêu bằng công cụ GIS. Sử dụng biên tập hiển thị kết quả tích hợp theo phương pháp bivariate mapping (hình 3). Kết quả thống kê diện tích (ha và tỷ lệ %) theo các mức độ thích nghi sinh thái và hiệu quả kinh tế - xã hội không gian trồng cây lúa huyện Phù Mỹ được thể hiện chi tiết ở bảng 5. Việc tích hợp kết quả đánh giá thích nghi sinh thái và hiệu quả kinh tế - xã hội giúp nhận biết đồng thời các mức độ hiệu quả thích nghi tự nhiên và hiệu quả kinh tế - xã hội cho các khu vực trồng lúa. (a) (b) (c) Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 22, 05-2021 37 Bảng 5. Tổng hợp thích nghi sinh thái và hiệu quả kinh tế - xã hội cây lúa huyện Phù Mỹ (ha/%) HIỆU QUẢ KT-XH Thích nghi sinh thái N S3 S2 S1 RT 12021,20 (22,87%) 1467,97 (2,79%) 1776,40 (3,38%) T 4556,81 (7,67%) 1506,95 (2,87%) 1539,76 (2,93%) 4060,71 (7,73%) TB 5338,9 (9,16%) 1516,03 (2,28%) 2548,74 (4,85%) 2834,83 (5,39%) C 1249,42 (2,38%) 2736,17 (5,21%) 3777,87 (7,19%) RC 3318,44 (6,31%) 4540,37 (8,64%) Từ hình 3 và kết quả thống kê cho thấy, mức không thích nghi sinh thái và hiệu quả kinh tế - xã hội thấp chiếm diện tích lớn nhất với 12021,20 ha (chiếm 22,87% diện tích huyện). Diện tích này phân bố chủ yếu ở các khu vực đồi, núi thấp phía Tây, khu vực trung tâm và dọc theo các cồn cát, đụn cát ven biển. Dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội nên những diện tích thuộc lưu vực sông La Tinh (tập trung ở các xã Mỹ Hiệp, Mỹ Tài, Mỹ Trinh và thị trấn Phù Mỹ) và đầm Trà Ổ (tập trung ở xã Mỹ Lộc và Mỹ Châu) có mức độ rất thích nghi sinh thái và hiệu quả kinh tế - xã hội cao với diện tích 4540,37 ha (chiếm 8,64% diện tích huyện). Đây là những khu vực cần được đầu tư và bảo vệ quỹ đất trồng lúa, hướng đến sản xuất hàng hóa. Kết quả cũng chỉ ra rằng, mức thích nghi sinh thái và hiệu quả kinh tế - xã hội có xu hướng giảm dần từ khu vực trung tâm các tiểu vùng lưu vực sông La Tinh và Đầm Trà Ổ về phía phía đồi núi thấp phía Tây và ven biển. 4. KẾT LUẬN - Trên cơ sở ứng dụng GIS và phương pháp phân tích thứ bậc AHP đã chỉ ra được các mức độ thích nghi sinh thái cho cây lúa huyện Phù Mỹ. Phần lớn lãnh thổ (65%) có mức từ thích nghi đến rất thích nghi sinh thái, phân bố chủ yếu dọc hệ thống sông La Tinh và ven Đầm Trà Ổ. - Tích hợp kết quả đánh giá thích nghi sinh thái và hiệu quả kinh tế - xã hội đã chỉ ra được 16 mức độ khác nhau tích hợp giữa thích nghi sinh thái và hiệu quả kinh tế - xã hội cây lúa huyện Phù Mỹ. Tiểu vùng hệ thống sông La Tinh có mức thích nghi sinh thái từ thích nghi đến rất thích nghi và hiệu quả kinh tế - xã hội từ cao đến rất cao với diện tích 14372,85 ha (chiếm 27,35%). Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 22, 05-2021 38 - Đánh giá kinh tế sinh thái của hoạt động sản xuất nông nghiệp trên cơ sở tích hợp các thuộc tính định lượng “đa chiều” (multi-dimension) là một phương thức hiệu quả để xác định tiềm năng thích nghi sinh thái và giới hạn thực tiễn về hiệu quả kinh tế - xã hội. Phương pháp phân tích thứ bậc AHP cho phép đánh giá các vấn đề ra quyết định đa chỉ tiêu với số lượng các chỉ tiêu tùy biến ở mức cao cũng như mở ra tiềm năng đánh giá tổng hợp hiệu quả kinh tế sinh thái cho nhiều loại hình sản xuất nông nghiệp khác nhau và có thể ứng dụng cho nhiều khu vực có cùng điều kiện trên lãnh thổ nước ta. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Wang J.Y., Wei X.M., Guo Q., A three-dimensional evaluation model for regional carrying capacity of ecological environment to social economic development: model development and a case study in China, Ecological Indicators, 2018, 89:348-355. 2. Hu M.M., Li Z.T., Yuan M.J., Fan C., Xia B.C., Spatial differentiation of ecological security and differentiated management of ecological conservation in the Pearl River Delta, China, Ecological Indicators, 2019, 104:439-448. 3. Sun M., Xiuhong L., Rongjin Y., Yi Z., Le Z., Zhenwei S., Qiang L., Dan Z., Comprehensive partitions and different strategies based on ecological security and economic development in Guizhou Province, China, Journal of Cleaner Production, 2020, 274tr. 4. Hardisty P.E., Environmental and Economic Sustainability, CRC Press, 2010, 337 pp. 5. Martius C., Rudenko I., Lamers J.P.A., Vlek P.L.G., Cotton, Water, Salts and Soums: Economic and ecological restructuring in Khorezm, Uzbekistan, Springer Publisher, 2012, 436 pp. 6. Rau A.L., Wehrden H.V., Abson D.J., Temporal Dynamics of Ecosystem Services, Ecological Economics, 2018, 151:122-130. 7. Venkatachalam L., Environmental economics and ecological economics: Where they can converge? Ecological Economics, 2007, 61:550-558. 8. Yang, Y., Hu, N., The spatial and temporal evolution of coordinated ecological and socioeconomic development in the provinces along the Silk Road Economic Belt in China. Sustainable Cities and Society, 2019, p.47. 9. Serenella S., Biagio C., Peter N., A systemic framework for sustainability assessment. Ecological Economics, 2015, 119:314-325. 10. Razieh M., Jan W., Rodger T., Hamid M., Uncertainty analysis in the application of multi-criteria decision-making methods in Australian strategic environmental decisions. Journal of Environmental Planning and Management, 2013, 56(8):1097-1124. Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 22, 05-2021 39 11. Abbas M., Ahmad J., Khalil M.D.N., Zainab K., Norhayati Z., Alireza V., Multiple criteria decision-making techniques and their applications - a review of the literature from 2000 to 2014, Economic Research-Ekonomska Istraživanja, 2015, 28(1):516-571. 12. Sánchez-Lozano J.M., Bernal-Conesa J.A., Environmental management of Natura 2000 network areas through the combination of Geographic Information Systems (GIS) with Multi-Criteria Decision Making (MCDM) methods. Case study in south-eastern Spain, Land Use Policy, 2017, 63:86-97. 13. Saaty, T.L., Decision making-the Analytic Hierarchy and Network Processes (AHP/ANP). Journal of Systems Science and Systems Engineering, 2004, 13:1-35. 14. Abhishek K., Bikash S., Arvind R.S., Yan D., Xiangning H., Praveen K., Bansal R.C., A review of multi criteria decision making (MCDM) towards sustainable renewable energy development, Renewable and Sustainable Energy Reviews, 2017, 69:596-609. 15. Biesecker C., Zahnd W.E., Brandt H.M., Adams S.A., Eberth J.M., A Bivariate Mapping Tutorial for Cancer Control Resource Allocation Decisions and Interventions. Preventing Chronic Disease: Public Health Research, Practice and Policy, 2020, tr.17. 16. Saaty, T. L., and Vargas, L. G., Decision Making with the Analytic Network Process: Economic, Political, Social and Technological Applications with Benefits, Opportunities, Costs and Risks (2nd ed.), Springer US. Electronic ISBN 978-1-4614-7279-7, 1980. 17. Ngo Duc Minh, Mai Van Trinh, Reiner Wassmann, Tran Dang Hoa, Nguyen Manh Khai, Farmer’s Perception and Farming Practices in Rice Production under Changing Climate: Case Study in Quang Nam Province, VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, 2014, 30:25-40. 18. Carstensen, L. W., Bivariate choropleth mapping: The effects of axis scaling. The American Cartographer, 1986, 13(1):27-42. 19. Strode, G., Thornton, B., Mesev, V. Johnson, N., Bivariate mapping: Examples on Florida covariance data using scatterplots from open source visual analytic tools, The Florida Geographer, 2016, 47:1-17. 20. TCVN 8409:2012, Quy trình đánh giá đất nông nghiệp. Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 22, 05-2021 40 SUMMARY AN EFFICIENCY ASSESSMENT MODEL INTEGRATING ECOLOGICAL AND SOCIO-ECONOMIC FACTORS FOR SUSTAINABLE AGRICULTURAL DEVELOPMENT: THE CASE OF RICE CULTIVATION IN PHU MY DISTRICT, BINH DINH PROVINCE For the sustainable agricultural development at the district scale, the assessment of ecological economic models allows the effects of natural resources and socio-economic limitations in the territory to the preservation of the production types’ efficiency. In the integration of Analytical Hierarchical Process method and Geographical Information System, we constructed an efficiency assessment model intergrating (i) ecological suitability evaluation, and (ii) socio-economic efficiency analysis. This study is applied with rice cultivation in Phu My district, Binh Dinh province in the year of 2019. The results was divided the study area into 20 efficiency degrees based the multiplication of 04 ecological factors and 05 socio- economic factors. In which, 8.64% of the territorial area at “very high degree” has the suitability of soil conditions, and 22.87% of them at ““very low degree” has a limitations of terrains. The methodological framework of this model has a highly customization capability, and provides the applications for many production types in different regions of Vietnam. Keywords: Efficiency assessment model, ecological suitability, socio- economic analysis, rice cultivation, Phu My, đánh giá hiệu quả tổng hợp, sinh thái, hiệu quả kinh tế - xã hội, lúa, Phù Mỹ. Nhận bài ngày 14 tháng 12 năm 2020 Phản biện xong ngày 07 tháng 3 năm 2021 Hoàn thiện ngày 15 tháng 3 năm 2021 (1) Trường Đại học Quy Nhơn (2) Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội
File đính kèm:
- mo_hinh_danh_gia_hieu_qua_kinh_te_sinh_thai_phuc_vu_phat_tri.pdf