Kỷ yếu Hoạt động khoa học & Giáo dục trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng
Luật so sánh là môn khoa học với đối tượng so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau nhằm tìm ra những điểm tương đồng khác biệt giữa chúng (Michael Bogdan, 1994). Bài viết nghiên cứu khái niệm luật so sánh, và ứng dụng luật so sánh vào nghiên cứu và giảng dạy ở nước ta hiện nay. 1. Khái niệm luật so sánh “Luật so sánh” là thuật ngữ gây nhiều tranh luận trong khoa học pháp lý thế giới. Có thể thấy cho tới nay, tên gọi của ngành khoa học này vẫn chưa được sử dụng thống nhất giữa các học giả luật so sánh trên thế giới. Ví dụ “luật so sánh” (comparative) theo cách gọi của De Cruz, Michael Bogdan; “so sánh luật” (comparision of law) theo Konrad Zweigert and Hein Koetz; “luật học so sánh” (comparative jurisprudence) theo Jonh Salmon.(Nguyễn Thị Ánh Vân, 2006). Ở Việt Nam, tên gọi của ngành khoa học này chưa được sử dụng thống nhất trong khoa học pháp lý. Ví dụ “luật học so sánh” (Võ Khánh Vinh, 1992); “so sánh pháp luật” (Đỗ Văn Đại, 2007), “luật so sánh” (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2017). Thực tế, thuật ngữ “luật so sánh” đã được sử dụng từ rất lâu đời và đến nay là thuật ngữ được sử dụng phổ biến nhất (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2017). Tuy nhiên, theo tác giả Đỗ Văn Đại thì: “Thuật ngữ luật so sánh dường như là hậu quả của việc dịch máy móc một số tài liệu nước ngoài. Thực tế cho thấy không có luật so sánh mà chỉ có so sánh pháp luật mà thôi” (Đỗ Văn Đại, 2007). Tác giả Ngô Huy Cương quan niệm: “Không nên đồng nhất (*) Giảng viên khoa Kinh tế, Trường ĐH Kiến trúc Đà Nẵng các khái niệm luật học so sánh và luật so sánh, khái niệm thứ nhất, theo nội dung, giàu có và có dung lượng lớn hơn nhiều và có tính chất tổng hợp” (Ngô Huy Cương, 2003). Theo chúng tôi, dù sử dụng dưới bất kỳ thuật ngữ nào thì những thuật ngữ này đều hàm chỉ một ngành khoa học nghiên cứu so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới. Bởi thế, Hội khoa học pháp lý quốc tế (IALS) khẳng định: “Khuyến khích việc phát triển khoa học pháp lý khắp thế giới thông qua việc nghiên cứu các luật nước ngoài, và sử dụng phương pháp so sánh”
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kỷ yếu Hoạt động khoa học & Giáo dục trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng
ư 41, ngoài rủi ro tín dụng, ngân hàng phải tính cả tài sản có rủi ro về thị trường, tài sản có về rủi ro hoạt động. Nghĩa là dựa trên tỷ lệ Vốn chủ sở hữu (VCSH)/Tổng tài sản có rủi ro thì mẫu số có rủi ro sẽ được làm “phình” ra vì phải tính đến rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động”. - Hơn nữa, các ngân hàng cũng cần xác định đúng hệ số hiệu chỉnh áp dụng (Hc, Hfx) tương ứng. Việc phân bổ giá trị tài sản đảm bảo cho các khoản phải đòi đúng và hợp lý để tối ưu hóa RWA cho rủi ro tín dụng cũng là một bài toán đặt ra với các ngân hàng. - Về phần rủi ro tín dụng, nếu theo Thông tư 36 hệ số rủi ro là 0-150% (còn theo thông tư 06 thì hệ số rủi ro cao nhất là 200% đối với cho vay bất động sản áp dụng từ 1/1/2017), thì hệ số rủi ro theo thông tư 41 là từ 0-250%, và phân chia cụ thể chi tiết hơn nhằm phản ánh mức độ rủi ro của từng khoản vay và từng đối tác. Tác động đối với ngân hàng là tài sản có rủi ro (RWA) cho rủi ro tín dụng về cơ bản sẽ tăng lên, cùng với việc xác định hệ số rủi ro cho từng khoản vay sẽ phức tạp hơn, đòi hỏi độ chính xác cao hơn. - Phụ lục 2 – Thông tư 41, điều chỉnh hệ số rủi ro đối với một số khoản phải đòi (Mục 23 và 31): Quy định này thể hiện mạnh mẽ thông điệp của NHNN kiểm soát cho vay cá nhân phục vụ nhu cầu đời sống liên quan đến bất động sản để mua nhà ở phân khúc cao cấp, gián tiếp yêu cầu ngân hàng, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài cần dự trữ thêm vốn đối với lĩnh vực bất động sản có tiềm ẩn rủi ro. Do đó, ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cần kiểm soát dư nợ cho vay cá nhân để phục vụ nhu cầu đời sống liên quan đến bất động sản ở phân khúc cao cấp. 1.3.Điều chỉnh giảm tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung dài hạn: Thông tư 41 giảm dần tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung dài hạn từ 40% (hiện nay) xuống còn 30% (đến 01/7/2021- phương án 1 hoặc đến 01/7/2022 – phương án 2). Theo tình hình hiện nay, việc kéo dài thời gian thêm 2 – 3 năm tới theo các chuyên gia tài chính là hoàn toàn hợp lý, các ngân hàng có đủ thời gian và điệu kiện để chuẩn bị. Theo thống kê của NHNN, tại thời điểm cuối tháng 1/2019, tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của các NHTM Nhà nước là 31,56%, của các NHTMCP là 32,94%. Việc điều chỉnh giảm này giúp các ngân hàng giảm rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản trong hoạt động kinh doanh của mình. Giúp các ngân hàng chủ động tiếp cận nguồn vốn khác: phát hành cổ phiếu tăng vốn, phát hành trái phiếu, hợp tác với các đối tác nước ngoài phù hợp với chủ trương phát triển thị trường trái phiếu. 2. Lợi ích cho các NHTM khi thực hiện Thông tư 41: Mục tiêu thực hiện Thông tư 41 là minh bạch hoạt động ngân hàng, giúp các ngân hàng hoạt động an toàn và hiệu quả theo tiêu chuẩn quốc tế. Lợi ích từ việc thực hiện Thông tư 41 là rất rõ ràng: KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019 81 - Thứ nhất: áp dụng tỷ lệ an toàn vốn theo định hướng Basel II là rất cần thiết, giúp các ngân hàng hoạt động an toàn hơn, tăng lượng vốn đáp ứng theo thông lệ tiên tiến để trang trải các rủi ro có thể xảy ra (bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động). - Thứ hai thông qua việc đưa ra các yêu cầu tính toán vốn, Thông tư đã phần nào định hướng các ngân hàng hướng tới phân khúc khách hàng ít rủi ro hơn để được hưởng hệ số rủi ro thấp hơn và ưu tiên các loại hình giảm thiểu rủi ro đủ điều kiện để được giảm trừ vốn yêu cầu. Chẳng hạn, một món nợ có hệ số rủi ro bằng 0 thì không đòi hỏi ngân hàng phải có vốn chủ sở hữu bảo đảm, nhưng một món nợ có hệ số rủi ro 100%, ngân hàng phải “trích lập” vốn chủ sở hữu tương đương với tối thiểu 8% của món nợ để bảo đảm ngân hàng hoạt động an toàn. Còn nếu một món nợ có hệ số rủi ro 200%, ngân hàng phải “trích lập” vốn chủ sở hữu tương đương với 16% giá trị sổ sách của món nợ. Một ngân hàng phải có vốn chủ sở hữu tối thiểu 8% trên tổng tài sản có rủi ro. - Thứ ba: khi thực hiện tính toán vốn, ngân hàng có dịp rà soát lại rủi ro cũng như công tác rủi ro theo phân khúc khách hàng, các yêu cầu về TSĐB từ đó có thể cải thiện công tác quản lý rủi ro và định hướng quản trị để đáp ứng yêu cầu. Theo Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (NHNN), với việc áp dụng Thông tư 41 sẽ tăng cường tính minh bạch hoạt động kinh doanh của các NHTM, giám sát của các nhà đầu tư, đối tác, người gửi tiền, tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM hoạt động lành mạnh trong việc huy động vốn, nâng cao năng lực tài chính. Theo yêu cầu của chuẩn mực vốn Basel II, Thông tư 41 có quy định về việc công bố công khai thông tin về tỷ lệ an toàn vốn, trạng thái rủi ro, các chính sách quản lý rủi ro... để nâng cao kỷ luật thị trường. Điều này sẽ giúp các lực lượng thị trường (các nhà đầu tư, đối tác, người gửi tiền, người có lợi ích liên quan) có điều kiện để giám sát NHTM, đồng thời tạo điều kiện các NHTM đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn, có chính sách quản lý rủi ro phù hợp, hoạt động lành mạnh sẽ huy động vốn với chi phí thấp, thu hút nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vốn, từ đó nâng cao năng lực tài chính để hoạt động. - Thứ tư, việc thực hiện Thông tư 41, giúp các ngân hàng đạt tiêu chuẩn Basel II được giao hạn mức tăng trưởng tín dụng cao hơn so với các ngân hàng khác (VCB, VIB, OCB). Tiếp đến nhóm 5 ngân hàng MB bank, TP bank, Techcombank, ACB, VP bank đã được nới hạn mức tăng trưởng tín dụng thêm 4% từ cuối tháng 6/2019. Như vậy tạo điều kiện cho tăng trưởng doanh thu, tăng thu nhập cho các NHTM. - Thứ năm, việc tuân thủ quy định tại Thông tư 41 tạo điều kiện cho các NHTM tiếp cận thị trường quốc tế. Basel II là chuẩn mực quan trọng nhất để đánh giá mức độ an toàn của các NHTM. Do đó, các NHTM áp dụng Basel II sẽ có điều kiện thuận lợi khi mở rộng hoạt động sang thị trường nước ngoài, đặc biệt đối với các quốc gia quy định tuân thủ Basel II là điều kiện bắt buộc khi gia nhập thị trường. Đồng thời, áp dụng Basel II là yếu tố tích cực để tổ chức xếp hạng quốc tế nâng hạng mức tín nhiệm, tạo điều kiện cho NHTM tiếp cận nguồn vốn với chi phí hợp lý từ các thị trường quốc tế. 12/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 82 3. Khó khăn cho các NHTM khi thực hiện Thông tư 41 khi thời gian hiệu lực của Thông tư đang đến gần. 3.1.Khó khăn trước nhất và lớn nhất của các NHTM là tăng vốn phù hợp: Theo quy định của Thông tư 41, ngoài việc tính rủi ro tín dụng theo tỷ lệ tín dụng so với nguồn vốn thì các ngân hàng cần phải tính cả rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động. Điều này sẽ khiến hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) của các ngân hàng chịu sức ép lớn hơn so với trước. NHTM sẽ tính toán để có phương án tăng vốn cấp 1 hoặc cấp 2. Đối với huy động vốn cấp 1, huy động vốn nước ngoài gặp khó khăn do trần sở hữu nước ngoài. Theo quy định tại Nghị định 01/2014/NĐ – CP thì tỷ lệ sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài hiện nay không được vượt quá 20% vốn điều lệ của một TCTD Việt Nam và tổng tỷ lệ sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài tại một TCTD trong nước không được vượt quá 30%. Trong khi đó huy động vốn trong nước còn hạn chế (tiềm lực tài chính). Ở thời điểm hiện tại, hầu hết các NHTM vẫn đang áp dụng biện pháp ngắn hạn là tăng vốn cấp 2 bằng phát hành trái phiếu: VPbank, ACB, VIB, HDB, Seabank, Vietinbank, AgribankTuy nhiên, biện pháp này chỉ giúp các NHTM giải quyết tình thế trong ngắn hạn và khiến chi phí vốn tại các NTHM tăng. Và nếu như các NHTM loay hoay không tìm ra cách tăng vốn một cách hợp lý thì sẽ dẫn đến tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu không đáp ứng được. Như vậy buộc NH phải thu hẹp hoạt động kinh doanh (để giảm tài sản có rủi ro) hoặc sẽ bị NHNN sử dụng biện pháp đặc biệt được quy định trong Luật sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng: cho vay đặc biệt, sáp nhập và cuối cùng là phá sản. Do đó, yêu cầu tăng vốn là yêu cầu hết sức cấp bách cho các NHTM trong giai đoạn hiện nay để thực hiện tốt Thông tư 41. 3.2.Cơ sở dữ liệu vừa thiếu vừa không đồng bộ Đây có thể coi là khó khăn lớn thứ 2 cho các NHTM khi triển khai Basel II. Hệ thống công nghệ ngân hàng lõi (core banking system) tại các NHTM có quá nhiều hệ thống khác nhau và dữ liệu không được chú trọng thu thập và quản trị một cách có hệ thống một thời gian dài ( về khách hàng, về lịch sử giao dịch). Trong khi đó, yêu cầu tối thiểu độ dài dữ liệu cho một số mô hình phân tích là 3 năm. Do đó, việc xây dựng hệ thống và thu thập dữ liệu sẽ cần thời gian, công sức, tiền bạc của các NH trước khi triển khai. 3.3.Yêu cầu các NHTM phải có một quy trình đánh giá an toàn vốn nội bộ và chiến lược để duy trì mức vốn an toàn. Trong 3 trụ cột Basel II thì trụ cột thứ 2 là yêu cầu các NHTM phải có một quy trình đánh giá an toàn vốn nội bộ và chiến lược để duy trì mức vốn an toàn. Đồng thời, NHNN sẽ chịu trách nhiệm rà soát, đánh giá lại và có thể can thiệp, điều chỉnh nếu vốn của NHTM dưới mức tối thiểu theo quy định. Điều này buộc các NHTM phải đầu tư một khoản không nhỏ cho việc đầu tư hệ thống công nghệ thông tin thông minh, đáng tin cậy và đủ đáp ứng theo yêu cầu đề ra. Theo chuyên gia tài chính TS.LS Bùi Quang Tín thì: “ Công nghệ thông tin phải thế nào, dữ liệu phải được lọc ra sao, chưa đảm bảo được chất lượng trong xây dựng các mô hình đo lường rủi ro và thiết lập các hệ thống báo cáo quản trị phục vụ giám sát rủi ro và ra các quyết định kinh doanh chính là KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 12/2019 83 điểm nghẽn gây khó khăn cho các ngân hàng”. 3.4.Khó khăn trong công khai thông tin theo nguyên tắc thị trường Thông tư 41 đặt ra cho các NHTM một yêu cầu: công khai thông tin khi đó các NHTM sẽ biết được tất cả thông tin của các đối thủ cạnh tranh, khách hàng cũng sẽ nắm thông tin của các NHTM, do đó các NHTM có chất lượng sẽ dễ dàng tồn tại, còn các NHTM yếu kém sẽ buộc phải dừng cuộc chơi. 4. Tình hình thực hiện thông tư 41 - tính đến tháng 10/2019 Thông tư 41/2016/TT-NHNN được chia lộ trình gồm 2 giai đoạn: - Giai đoạn 1: Thí điểm áp dụng Basel II tại 10 ngân hàng (Vietcombank, VietinBank, BIDV, MB, Sacombank, Techcombank, ACB, VPBank, VIB và MSB). Chương trình thí điểm bắt đầu từ tháng 2/2016, mục tiêu là đến cuối năm 2018 các ngân hàng này phải cơ bản đáp ứng các yêu cầu của Basel II. - Giai đoạn 2: Đến năm 2020 cơ bản các NHTM có mức vốn tự có theo chuẩn mực của Basel II, trong đó có ít nhất 12-15 NHTM áp dụng thành công Basel II (theo nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 ngày 8/11/2016). Trong đó, Vietcombank và VIB là hai ngân hàng đầu tiên được NHNN chấp thuận tuân thủ Basel II từ ngày 1/1/2019. Tính đến tháng 10/2019 đã có 10 ngân hàng triển khai thành công: Vietcombank và VIB, OCB, MB, TPBank, ACB, Techcombank, VPbank, MSB, HDbank. Như vậy, trong số 10 cái tên được chọn để thí điểm Basel, thì cho đến hiện tại chỉ có Vietinbank, BIDV, Sacombank là không thể hoàn thành theo kế hoạch. Nếu như Vietinbank gặp khó khăn trong vấn đề tăng vốn tự có do đã hết "room" để bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, thì Sacombank đã phải trải qua biết bao thăng trầm qua các cuộc đổi chủ, vướng vào nợ xấu và phải tự xây dựng lộ trình tái cấu trúc để phục hồi trở lại. Riêng BIDV đã hoàn tất việc bán vốn cho đối tác của Hàn Quốc là Hana KEB nên dự kiến cũng sẽ tăng mạnh được vốn tự có trong thời gian tới. Bảng 1.Tỷ lệ an toàn vốn của 10 ngân hàng thí điểm áp dụng Basel II giai đoạn 2014 – 2018 (%) Ngân hàng Vietin bank Vietcom bank BID V Sacom bank Techcom bank ACB MB MSB VIB VPbank 2014 10.40 11.61 9.27 9.39 15.65 14.08 10.07 15.73 17.7 11.03 2015 10.50 11.04 9.01 9.95 14.74 12.80 11.70 25.53 18.00 12.20 2016 9.70 10.57 8.8 9.70 13.10 13.90 12.90 14.00 13.50 13.03 2017 10.00 11.63 10.91 11.30 12.68 11.53 12.50 19.48 13.07 12.60 2018 9.60 12.14 10.34 11.88 14.3 12.81 11.20 12.17 13.00 11.20 (Nguồn: tổng hợp từ Báo cáo thường niên của các ngân hàng) 12/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 84 Theo bảng 1.1, tỷ lệ an toàn vốn của 10 ngân hàng được chọn thí điểm áp dụng Basel II (giai đoạn 1) luôn đạt mức cao >8% và có xu hướng tăng qua các năm. Nhưng nếu áp dụng cách tính tỷ lệ an toàn vốn theo Thông tư 41, với việc tài sản có rủi ro được tính toán rất khác so với Thông tư 36 nên chắc chắn tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng sẽ giảm đi rất nhiều nếu các ngân hàng không đẩy mạnh việc tăng vốn của mình. Với mục tiêu tăng “sức khỏe tài chính”, tăng khả năng cạnh tranh, lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng theo Thông tư 41 là khá rõ ràng. Tuy nhiên việc thực hiện và duy trì theo những quy định mới đặt các ngân hàng trước những khó khăn, thách thức mới buộc các ngân hàng phải có một cuộc cải tổ toàn diện, từ việc nâng cao vốn, thực hiện đổi mới hệ thống công nghệ thông tin phù hợp để giám sát, tính toán chính xác các dữ liệu liên quan: rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường 5. Kết luận Việc triển khai Basel II chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn, buộc các NHTM phải có những sự đổi mới, bức phá và nâng cao năng lực quản trị rủi ro, quản trị nguồn vốn hiệu quả. Buộc các NHTM phải đầu tư nghiêm túc cho công nghệ thông tin để phục vụ cho công tác kiểm tra, giám sát và thực thi Thông tư 41. Tuy nhiên, đây là cách thức được xem là tối ưu nhất giúp các NHTM hoạt động an toàn hơn, lành mạnh hơn nhờ các mô hình rủi ro và xếp hạng nội bộ được chủ động áp dụng đồng thời vốn được quản lý hiệu quả hơn, có thể giúp ngân hàng trụ vững trước những biến động khó lường của nền tài chính. Bên cạnh đó, xu hướng hội nhập thế giới, các NHTM buộc phải đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế như Basel II để có thể thu hút thêm đầu tư nước ngoài hoặc thâm nhập và các thị trường phát triển khác. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Các ngân hàng trong quá trình thực hiện các nguyên tắc của Basel II theo thông tư 41. Hữu Hùng – vneconomy - T10/2019 [2]. Áp dụng Basel II: phân hóa ngân hàng sẽ ngày càng rõ nét – Minh Khôi – Thời báo ngân hàng (24/6/2019) [3]. Ngân hàng và đích đến Basel II – Minh Khôi – Thời báo ngân hàng (06/9/2019) [4]. An toàn vốn của các NHTM – Thực trạng Việt Nam và giải pháp cho việc áp dụng Hiệp ước tiêu chuẩn vốn Basel II và III – Ths Nguyên Đức Trung – Học viện Ngân hàng. [5]. Basel II: The new framework for bank capital – Goran Lind – Economic Review – 2/2005 [6]. Basel II Pillar II Practice Study – World Bank Group – 01/6/2018 [7]. website: sbv.gov, tapchitaichinh.vn, vneconomy
File đính kèm:
- ky_yeu_hoat_dong_khoa_hoc_giao_duc_truong_dai_hoc_kien_truc.pdf