Kỹ thuật nuôi ghép trong các mô hình nuôi cá kết hợp
1. MÔ HÌNH NUÔI CÁ – LÚA KẾT HỢP
I. Cơ sở khoa học của sự kết hợp lúa – cá
1. Tăng thêm thu nhập góp phần cải thiện đời sống nông dân
Ở ĐBSCL có hàng triệu ha ruộng trồng lúa có
thể nuôi cá kết hợp được. Tuy nhiên, trên thực tế số
ruộng có thả cá nuôi rất ít. Phần lớn ở các ruộng lúa
nông dân chỉ lợi dụng vào cá tự nhiên sau mỗi mùa
thu hoạch. Nếu mỗi người đều cùng hiểu biết về lợi
ích kinh tế và kỹ thuật thì sản phẩm tôm cá nuôi ở
ruộng lúa sẽ làm tăng thêm thu nhập, cải thiện đời
sống cho người dân.
2. Nuôi cá có kết hợp cấy lúa, năng suất lúa cao hơn so với ruộng không nuôi cá
Khi vận hành mô hình canh tác Lúa – Cá kết hợp, do cá nuôi ở ruộng lúa, cá sục bùn để
tìm mồi ở đáy ruộng, đảo dinh dưỡng từ nền đáy ruộng lúa, diệt cỏ dại, côn trùng, sâu bệnh hại
lúa, đồng thời phân cá thải ra làm đất ruộng lúa giàu thêm dinh dưỡng.
3. Khả năng tiêu diệt và hạn chế sâu rầy của cá
Ở ruộng nuôi cá kết hợp với cấy lúa, người dân rất hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu, nên
giảm được nhiều công lao động và hạ giá thành sản phẩm. Tất nhiên, trong quá trình canh tác,
nhằm bảo vệ vụ mùa, đảm bảo năng suất lúa canh tác, trong trường hợp lúa nhiễm sâu bệnh,
người sản xuất có thể điều tiết nước quanh mương bao và ao liên kề để xử lý thuốc trừ sâu, sau 3
ngày xử lý thuốc, độc tố từ thuốc trừ sâu bị phân huỷ, lúc bấy giờ người nuôi cá dâng nước trở lại
ruộng lúa, cá nuôi tiếp tục phát triển bình thường trong ruộng lúa.
4. Tăng thêm thức ăn cho cá
Trong quá trình canh tác lúa, do việc trồng lúa cần phải có thời gian trục xạ đất, bón phân
vô hay hữu cơ làm tăng thêm thức ăn cho cá, đồng thời trong quá trình canh tác các hạt lúa rụng
cũng làm thức ăn tốt cho cá nuôi. Vì vậy cá nuôi ở ruộng chủ yếu dựa và thức ăn tự nhiên, nên ít
đầu tư, tốn thêm các chi phí thức ăn cho cá.
5. Mối liên hệ giữa các thành phần trong mô hình nuôi cá – lúa kết hợp
- Hạn chế côn trùng phá hại lúa, cỏ dại, ốc, các loại bệnh về lúa do cá tận dụng được
nguồn thức ăn sẳn có trên đồng ruộng
Hình 1. Mô hình Lúa – Cá kết hợp ở vùng
ĐBSCL- Giảm việc sử dụng phân bón thuốc trừ sâu độc hại cho con người và môi trường
sống.
- Tiết kiệm được lượng giống và phân bón dùng cho hoạt động canh tác lúa
- Tận dụng được thời gian nhàn rổi của bà con nông dân trong vụ lúa và thời gian nước
lũ dâng lên.
- Đa dạng đối tượng canh tác, hạn chế rủi ro và nâng cao thu nhập cho người sản xuất
trong điều kiện ruộng lúa.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kỹ thuật nuôi ghép trong các mô hình nuôi cá kết hợp
uân. - Hạn chế o Chi phí đầu tư ban đầu lớn cho công trình, đê bao quanh và lưới chắn xung quanh. o Vốn đầu tư cao về con giống cũng như thức ăn, chăm sóc, bảo vệ. o Yêu cầu người nuôi phải hiểu biết đối tượng nuôi và quy trình kỹ thuật ứng dụng. V. CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT VẬN HÀNH MÔ HÌNH LÚA – CÁ 1. Chuẩn bị ruộng lúa nuôi cá - Sau khi thu hoạch lúa, dọn sạch rơm rạ, cỏ trên ruộng lúa; sên vét lớp bùn đáy ở mương bao, chỉ để lại lớp bùn 15 - 20 cm. Cho nước vào ngập ruộng ngâm vài ngày rồi xả bỏ. Những ruộng có hệ thống mương bao mới đào thì cần lấy nước vào ngâm vài lần để rửa và xổ phèn. - Bón vôi: sử dụng vôi nông nghiệp (CaCO3) hay vôi nung (CaO) 10 - 15 kg/100m2. Bón vôi sau khi đáy mương bao đã được tát cạn, vôi được rải khắp mương và bờ ruộng. Bón vôi ngoài việc diệt tạp, tiêu độc đáy mương nó còn tạo điều kiện cho giá trị pH được điều chỉnh thích hợp, thuận lợi trong việc tạo thức ăn tự nhiên ban đầu có ích cho cá nuôi giai đoạn nhỏ. - Phơi mặt ruộng và đáy mương bao khoảng 2 - 3 ngày, tránh phơi quá lâu làm cho mặt ruộng bị nứt nẻ nhiều, đất ruộng nhiễm phèn có thể bị xì phèn. - Cấp nước vào ruộng nuôi phải qua lưới lọc (lưới cước a = 0.3mm) để ngăn chặn địch hại và tép cá tạp vào làm giảm sản lượng nuôi và cạnh tranh thức ăn. Khi mực nước trong mương bao đạt 1,2 m thì có thể bón phân vô cơ DAP từ 100 - 150 g/100m2 để gây màu nước hoặc phân hữu cơ 7 – 10 kg/100m2. Lợi ích của việc bón phân là để hạn chế tảo đáy phát triển, tảo sẽ hấp thu các sản phẩm Nitơ và Phospho trong nước hạn chế nguồn gây ô nhiễm và làm ổn định nhiệt độ, pH. 2. Chọn đối tượng đầu tư khai thác a. Chọn giống lúa: Mô hình lúa – cá kết hợp là mô hình tận dụng triệt để nguồn thức ăn tự nhiên trên ruộng lúa và hạn chế tối đa việc sử dụng hoá chất trên đồng ruộng do đó cần phải chọn giống lúa có thể kháng sâu bệnh tốt như: MTL – 141, MTL – 149, MTL – 159, IR60820 – 81 - 2 - 1, IR64 Tốt nhất nên chọn phương pháp sạ hàng để sạ lúa b. Chọn loài cá thả nuôi: Mặc dù phần lớn các loài cá nước ngọt đều có thể được chọn nuôi trong ruộng. Tuy nhiên khi chọn loài cá thả nuôi cần lưu ý - Đối tượng nuôi phải có khả năng thích nghi, phát triển tốt và ăn các loại thức ăn tự nhiên có sẵn trong ruộng. - Khả năng đầu tư thức ăn, phân bón của người nuôi. - Đảm bảo số lượng giống thả. - Điều quan trọng là thị hiếu của người nuôi và nhu cầu của thị trường tiêu thụ. Các đối tượng phổ biến hiện nay được nuôi trong ruộng lúa là: cá Mè vinh, Chép, rô phi, Sặc rằn, Rô đồng, Hường, Bống tượng và Thát lát... 3. Kỹ thuật nuôi cá trong mô hình Lúa – Cá kết hợp 3.1. Mật độ thả cá nuôi trong ruộng lúa kết hợp Mật độ cá thả nuôi còn tuỳ thuộc vào độ màu mỡ của nước và lượng thức ăn cung cấp bổ sung. Do vậy trong ruộng lúa, các loài cá nuôi có thể thả cá với mật độ liên hệ đến khả năng quản lý ruộng nuôi kết hợp như sau: - Không cung cấp thức ăn bổ sung: 0,5 – 1 con/m2 - Cung cấp thức ăn bổ sung bằng những phụ phế phẩm nông nghiệp ở địa phương, khẩu phần 2 - 3 %/khối lượng cá/ngày: 2 con/m2 - Ruộng nuôi có đầu tư thức ăn bổ sung thông thường, khẩu phần dao động từ 5 – 7 %/khối lượng/ngày thì mật độ thả nuôi có thể từ 3 - 5 con/m2. Chất lượng con giống thả nuôi là rất quan trọng, do đó phải chọn cá khỏe, có kích cỡ tương đối đồng đều, màu sắc bóng sáng, bơi lội nhanh nhẹn. Cỡ cá giống từ 200 - 300 con/kg. 3.2. Cơ cấu thả ghép trong mô hình nuôi kết hợp Lợi ích của việc nuôi kết hợp giữa các loài cá thả nuôi - Tận dụng không gian, tầng nước để cá có thể phân bố tồn tại, sử dụng nguồn thức ăn trong hệ thống nuôi do các đối tượng chọn nuôi có tính ăn và tầng nước sinh sống khác nhau. - Tăng năng suất trên một đơn vị diện tích mặt nước. Hạn chế rủi ro do thị trường các loài cá nuôi biến động. - Tỉ lệ thả kết hợp giữa các loài cá nuôi có thể tham khảo với các công thức sau Công thức 1 Loài cá thả nuôi Tỉ lệ (%) Mè vinh Rô phi Chép 50 30 20 Công thức 2 Loài cá Tỉ lệ (%) Mè vinh Rô phi Sặc rằn Chép 50 20 20 10 Công thức 3 Loài cá Tỉ lệ (%) Mè vinh Rô phi Mè Trắng hay Mè hoa Chép 50 20 15 15 3.3. Thời gian sạ lúa và thả cá nuôi • Sạ lúa - Vụ Hè – Thu: bắt đầu từ khoảng giữa tháng 2 đến giữa tháng 6, sau khi kết thúc vụ đông – xuân - Vụ Đông – Xuân: bắt đầu sau khi nước rút và thu hoạch các loài cá, tháng 11 đến tháng 3 • Thả cá - Nên thả cá sớm hơn sau khi sạ lúa vài ngày (vào khoảng giữa cuối tháng 2). Thả cá giống vào ruộng lúa sớm sẽ có lợi cho mô hình hoạt động. - Cá dữ ít hoặc không có nên tỷ lệ sống đạt rất cao Thời gian nuôi dài, cá lúc thu hoạch lớn lúc đầu cá giống được thả ở ao trử và mương bao (chưa cho lên mương ruộng). Sau khoảng 40 – 50 ngày thì dâng nước lên cho cá nuôi vào ruộng, lúc này lúa canh tác đã lớn. 5.4. Vận chuyển và thả cá nuôi Nên vận chuyển cá lúc trời mát để tránh gây sốc và tổn thương cho cá. Nên thả cá lúc sáng sớm hay chiều mát. Trước khi thả cá cần ngâm bao trong nước ao từ 10 - 20 phút để cân bằng nhiệt độ bên trong bao và bên ngoài Hình 8. Thả giống cá nuôi trong ruộng lúa môi trường nước. Khi nhiệ t độ bên trong và bên ngoài bao tương đối cân bằng thì mở miệng bao cho nước bên ngoài vào trong bao, sau đó hạ từ từ cho cá bơi ra bên ngoài. 6. Quản lý cá nuôi 6.1. Thức ăn bổ sung Một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công trong hoạt động nuôi thủy sản là nhân tố thức ăn (Tacon, 1995). Do vậy, để cá nuôi có thể phát triển tốt, ruộng lúa rất cần được bổ sung thức ăn cho cá nuôi mhằm đảm bảo chất lượng dinh dưỡng và số lượng cho ăn. Thức ăn tươi bao gồm cá, tép, cua, ốc, hến...các phế phẩm từ nhà máy chế biến thủy sản. Thức ăn tươi rất dễ làm chất lượng nước xấu đi nhanh chóng, hệ số tiêu tốn thức ăn cao. Thức ăn viên (công nghiệp), thức ăn tự chế biến: các thành phần dinh dưỡng đã được phối chế phù hợp với từng giai đoạn tăng trưởng của đối tượng nuôi. Qui trình công nghệ sản xuất thức ăn hiện đại đảm bảo chất lượng thức ăn, thời gian bảo quản lâu, hệ số thức ăn thấp, ít ảnh hưởng đến chất lượng nước trong hệ thống nuôi. Trong quá trình nuôi, tuỳ vào điều kiện thực tế, có thể kết hợp thức ăn viên và thức ăn tự chế biến. Một số công thức thức ăn được phối trộn như sau - Công thức 1: Cám 70 % + Bột cá 25 % + Chất kết dính 5 % - Công thức 2: Cám 70 % + Ốc ruột xay nhỏ 25 % + Chất kết dính 5 % 6.2. Phương pháp cho cá ăn - Trong thời gian đầu cá còn nhỏ khả năng bắt mồi kém, yêu cầu thức ăn có chất lượng dinh dưỡng cao, do đó nên sử dụng thức ăn viên nổi (hàm lượng đạm từ 25 – 30 %). Cho ăn 3 - 4 lần/ngày. - Khi cá lớn (30 – 50 g/con) nên cho ăn bổ sung thức ăn tinh như tấm nấu chín phối trộn với bột cá hoặc ốc, cua xay nhỏ. - Lượng cho thay đổi theo tháng nuôi: Hai tháng đầu 10 % trọng lượng cá, tháng thứ 3 - 4 cho ăn 7 %, tháng 5 - 6 cho ăn 5 % và những tháng sau cho ăn 3 % (tuy nhiên lượng cho ăn phải được điều chỉnh theo mức độ ăn mồi của cá). Để điều chỉnh lượng cho ăn phù hợp cần lưu ý một số yếu tố như - Theo dõi mức độ ăn mồi của cá, nếu sau 30 phút cá ăn hết là đạt yêu cầu. Trường hợp cá ăn hết nhanh trong thời gian ngắn thì phải tăng thêm lượng thức ăn. - Khi nước ao bị dơ hay có mùi nên giảm lượng cho ăn. Thời kỳ sử dụng nông dược trên ruộng. Lúc này cá ở dưới mương 10 – 15 ngày, cho cá ăn bằng cách rãi điều trên mặt hoặc cho ăn vào sàn tập trung ở nhiều nơi trong mương. 7. Chăm sóc và quản lý lúa Sau khi lúa sạ 3 – 5 ngày tiến hành cho nước vào ruộng, sau đó điều chỉnh mực nước theo tốc độ phát triển của cây lúa, nhằm mục đích tạo điều kiện cho cây lúa tăng trưởng tốt, đồng thời ngăn chặn và hạn chế cỏ dại phát triển. Công việc bón phân cần được xem xét kỷ nhằm tránh thiếu hoặc quá dư không tốt cho cây lúa và tạo kiện cho sâu bệnh phát triển. Có thể chia làm ba đợt bón phân như sau − Đợt 1: Từ 10 – 15 ngày sau khi sạ lúa, bón phân Ure liều lượng 45 – 55 kg/ ha. − Đợt 2: Từ 25 – 30 ngày sau khi sạ lúa bón phân Ure liều lượng: 65 – 70 kg/ha và DAP liều lượng: 45 – 55 kg/ha − Đợt 3: Từ 40 - 45 ngày sau khi sạ lúa, bón phân + Ure liều lượng: 45 – 55 kg/ha + NPK liều lượng: 45 – 55 kg/ha - Ngoài việc sử dụng phân bón nông dân còn xịt các loại thuốc khác để ngừa bệnh, giúp chắc hạt, rướt hạt hay hạt bắt đầu ngậm sửa với các loại thuốc như: Regent, Topsin, Alvil - Đối với thuốc trừ sâu thì áp dụng phương pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp IPM nên không phun thuốc trừ sâu. - Sau khi lúa đạt 90 – 100 ngày tuổi thì lúa này đã chín có thể thu hoạch được. - Hoạt động điều tiết mực nước trên ruộng - Tuần đầu mới thả cần phải giữ cá ở mương, sau khi sạ lúa được 40 – 50 ngày (tuy nhiên đối với ruộng cấy lúa thì sau 20 – 25 ngày) thì dâng nước để cá lên ruộng tìm kiếm thức ăn. Trong suốt thời gian chăm sóc lúa và cá nuôi nên duy trì mức nước tối đa (thường từ 60 – 120 cm). - Khi sử dụng nông dược hoặc bón phân hoá học, phải rút nước cho cá xuống ao liên kề, mương bao quanh chờ 3 – 5 ngày thuốc hết độc do ánh sáng hay nhiệt độ tăng cao phân hủy thì cấp nước trở lại cho cá lên ruộng. - Sau khi thu hoạch lúa Hè – Thu, cấp nước lên ruộng đến mức tối đa cho cá mau lớn. - Khi sử dụng thuốc nông dược cần lưu ý các loại thuốc không được sử dụng như: Furazon, Fastac, Thiodan, Decis, Sherpa. 8. Quản lý chất lượng nước hệ thống nuôi cá kết hợp Thay nước cho hệ thống nuôi cá kết hợp: Thay nước khi chất lượng nước xấu đi, nước có mùi hôi,... cá nổi đầu vào sáng sớm, chỉ nên thay nước khoảng 20 - 30 % để tránh tình trạng cá bị sốc. Việc thay nước sẽ làm tăng thêm oxy, giảm các chất độc trong hệ thống nuôi, kích thích cá hoạt động và bắt mồi. Lưu ý khi thay nước phải xác định được nguồn nước cấp có đảm bảo yêu cầu về chất lượng hay không để tránh tình trạng làm xấu đi hoặc ô nhiễm chất lượng nước trong ruộng nuôi. Vào đầu mùa mưa, mùa ngập lũ phải thường xuyên kiểm tra đăng, cống,...dọn cỏ quanh bờ bao quanh tránh để nước dâng cao ngập cỏ gây phân huỷ vật chất hữu cơ làm suy giảm hàm lượng oxygen cho hệ thống nuôi kết hợp. Nông dược sử dụng trong ruộng lúa: Trong quá trình nuôi lưu ý việc sử dụng nông dược trong canh tác lúa cũng như hoa màu của các nông hộ kế cận để hạn chế đến mức thấp nhất khả năng nhiễm sang ruộng nuôi cá. Nhiệt độ nước: Để nhiệt độ trên bề mặt ruộng lúa không biến động lớn, mực nước trên bề mặt ruộng lúa thấp nhất phải đạt được từ 60 – 120 cm, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các loại thức ăn tự nhiên làm thức ăn và không gian cho cá nuôi trong ruộng lúa hoạt động và phát triển. Oxygen (DO ppm): Trong ruộng lúa nuôi kết hợp hàm lượng oxy hoà tan trong nước có sự biến động khá cao giữa ngày và đêm, thấp nhất vào lúc sáng sớm và cao nhất lúc 3 – 4 giờ chiều. Để đảm bảo hàm lượng oxy cao trong ruộng nuôi lưu ý thời điểm cải tạo ruộng nuôi phải dọn sạch rơm rạ trên mặt ruộng để hạn chế phân hũy hữu cơ khi cấp nước vào. Biện pháp để tăng cường và ổn định oxy ở mức cao là thay nước khi nước có màu quá xanh (màu xanh đậm) hay có màu xám. pH nước: pH trong hệ thống nuôi biến động theo sự phát triển của tảo. pH tăng khi tảo quang hợp và phát triển mạnh. Những cơn mưa đầu mùa, nhất là đối với những hệ thống nuôi mới xây dựng, sẽ rửa phèn từ bờ xuống hệ thống nuôi làm pH giảm. Ngoài ra sự phân huỷ mùn bả hữu cơ ở đáy ao cũng làm cho pH ở tầng này thấp. Dùng vôi CaO hay CaCO3 liều từ 7 - 10 kg/100m2 rải quanh bờ trước những cơn mưa lớn. Nếu pH nước xuống dưới 7 thì dùng vôi nông nghiệp CaCO3 hoặc Dolomite (đá vôi đen) CaMg(CO3)2 bón với lượng 2 - 3 kg/100m2. Địch hại: Bao gồm các loài cá tạp, cá dữ, cua, rắn, ếch, chim,... tấn công trực tiếp đến cá hay gián tiếp thông qua sự cạnh tranh thức ăn. Để hạn chế các đối tượng này bờ bao cần phải có lưới đăng chắn bao quanh ruộng lúa, ao liên kề và nguồn nước trước khi vào hệ thống nuôi phải được cấp qua lưới lọc. 9. Thu hoạch sản phẩm Sau 6 - 7 tháng nuôi, bơm nước hạ dần mức nước ruộng để cá tập trung xuống mương bao, sau đó dùng lưới kéo, số còn lại tát cạn và thu hoạch bằng tay. Năng suất cá nuôi trong ruộng lúa có thể đạt dao động từ 700 – 1.200 kg/ha. Năng suất cá nuôi dao động tùy thuộc vào đối tượng thả và mức độ đầu tư thức ăn. 10. Một số lưu ý trong hoạt động phòng bệnh cho các loài cá nuôi Nguyên nhân làm cá nhiễm bệnh: Cá nhiễm bệnh là kết quả tương tác chủ yếu giữa ba nhân tố: Môi trường - Tác nhân gây bệnh - Ký chủ (bản thân cá). - Yếu tố môi trường: sự biến động lớn về nhiệt độ, độ pH và hàm lượng oxy hoà tan trong nước thấp sẽ gây sốc hoặc làm cho hoạt động của cá bị suy yếu. - Tác nhân gây bệnh: bao gồm bệnh truyền nhiễm (virus, vi khuẩn, nấm), bệnh ký sinh trùng (nguyên sinh động vật, giun sán, giáp xác,...) và các sinh vật gây nguy hiểm cho cá (côn trùng nước, cá dữ, rắn, ếch, chim...) làm tổn thương đến cá tạo điều kiện cho bệnh ký sinh hay bệnh truyền nhiễm phát triển. Hình 9. Thu hoạch cá nuôi trong ruộng lúa - Yếu tố ký chủ: Sức đề kháng của cá đối với bệnh. - Yếu tố con người - kỹ thuật nuôi: Vận chuyển, đánh bắt làm tổn thương, xây xát cá - Quản lý chăm sóc hệ thống canh tác không tốt, mật độ thả nuôi quá cao. Để hạn chế dịch bệnh xảy ra cho cá cần làm tốt các khâu - Cải tạo ruộng nuôi: nhằm hạn chế mầm bệnh phát triển và tạo môi trường thuận lợi cho các loài cá ương nuôi phát triển. - Chọn giống tốt và xử lý cá: không nên thả cá mật độ quá dầy, tốt nhất thả 1 - 2 con/m2. Cỡ cá thả từ 250 - 300 con/kg, cá khoẻ, không bị dị hình, không bị xây xát. Cá khi mới mang về cần tắm trong nước muối, pha 15 g muối trong 1 lít nước, ngâm cá trong 15 phút (lưu ý không được để cá thiếu oxy trong khi đang ngâm cá). - Chuẩn bị tốt vào thời điểm giao mùa hay mùa mưa bão: vào thời điểm giao mùa khả năng phòng chống bệnh của cá yếu, các mầm bệnh dễ phát triển, cá dễ bị nhiễm bệnh. Bón vôi bột quanh bờ vào đầu mùa mưa, dọn cỏ xung quanh bờ. Đối với ruộng canh tác mới xây dựng, môi trường nuôi thường thay đổi, pH giảm, rất cần lưu ý biện pháp xử lý phèn thông qua việc bón vôi bột trên bờ bao quanh ruộng định kỳ nhằm tạo môi trường nuôi với giá trị pH nước ổn định. - Thay nước: khi thay nước cần lưu ý phải đảm bảo nguồn nước tốt, chỉ thay nước khi cần thiết để tránh làm sốc cá; mỗi lần thay chỉ nên thay khoảng 20 – 30 % tổng lượng nước trong ruộng nuôi. Để phòng cá nhiễm bệnh, sau khi thay nước nên dùng vôi bột với liều lượng từ 2 – 3 kg/100 m2 hòa tan và tạt khắp ruộng nuôi. Cần phải thận trọng trong việc sử dụng formol cho tôm nuôi trong ruộng lúa, do formol khi xử lý đạt kết quả nhưng chúng sẽ làm giảm DO trong ao hay mương bao quanh ruộng lúa. Thay nước mới thông qua bơm nước là giải pháp khắc phục. - Chăm sóc cá tốt để tăng sức đề kháng bệnh, cho cá ăn đầy đủ về số lượng thức ăn cũng như thành phần dinh dưỡng phải đảm bảo. Vào những ngày thời tiết xấu nên giảm lượng cho ăn và tăng cường thức ăn giàu dinh dưỡng.
File đính kèm:
- ky_thuat_nuoi_ghep_trong_cac_mo_hinh_nuoi_ca_ket_hop.pdf