Kỹ năng ứng phó với những khó khăn trong gia đình của học sinh Trung học Phổ thông - thành phố Huế
Trong cuộc sống, mỗi người đều phải đối mặt với những khó khăn, căng thẳng liên quan
đến gia đình, học tập, công việc và mức độ ảnh hưởng của chúng phụ thuộc rất nhiều
vào KNƯP của cá nhân. Nếu cá nhân sử dụng những cách ứng phó (ƯP) phù hợp thì có
thể giải quyết khó khăn, giảm nhẹ hoặc loại bỏ căng thẳng. Ngược lại, nếu cá nhân áp
dụng những cách ƯP không thích hợp và thiếu hiệu quả thì khó khăn sẽ không được
giải quyết, hoặc giải quyết theo hướng tiêu cực và sẽ tác động không tốt đến bản thân cá
nhân và xã hội.
Học sinh THPT là lứa tuổi rất cần được quan tâm khi nghiên cứu về KNƯP. Những
thay đổi về tâm sinh lý, vai trò, vị trí xã hội cộng với những áp lực học tập gây nên
nhiều khó khăn cho các em. Bên cạnh đó, tri thức, kinh nghiệm sống, KNƯP với khó
khăn của các em đang còn hạn chế. Vì thế, chương trình giáo dục kỹ năng sống nói
chung và KNƯP nói riêng cho HS THPT đang ngày càng là một đòi hỏi cấp bách trong
xã hội hiện đại.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kỹ năng ứng phó với những khó khăn trong gia đình của học sinh Trung học Phổ thông - thành phố Huế
ự, chia sẻ trên diễn đàn được giới trẻ nói chung hưởng ứng, HS THPT ở TP Huế ít lựa chọn hình thức này để ƯP với khó khăn trong gia đình. 3.1.3. Nhóm “Xoa dịu căng thẳng” Bảng 3. Mức độ thường xuyên sử dụng nhóm “Xoa dịu căng thẳng” III. XOA DỊU CĂNG THẲNG ĐTB ĐLC A. Suy nghĩ theo hướng tích cực 2,20 0,36 1. Tôi nghĩ rằng đằng nào thì mọi việc cũng xảy ra rồi 1,95 0,62 2. Tôi cố gắng tìm kiếm mặt tích cực trong tình huống khó khăn nhất 2,18 0,59 3. Tôi nhắc nhở bản thân mình tôi vẫn còn may mắn hơn nhiều người khác 2,37 0,59 4. Tôi tự nhủ rằng trong một thời gian ngắn, mọi thứ sẽ qua đi 2,28 0,61 B. Hành động giảm nhẹ căng thẳng 2,26 0,38 1. Tôi đi chơi với bạn bè 2,21 0,60 2. Tôi tham gia vào các hoạt động giải trí ngoài trời để giảm căng thẳng 2,40 0,63 3. Tôi khóc hoặc tìm nơi vắng vẻ để hét thật to hoặc ngủ một giấc 2,06 0,74 4. Tôi dành thời gian làm điều mình thích làm (ăn uống, chơi thể thao) 2,38 0,63 Chung cho nhóm 2,23 0,29 Các cách ƯP trong nhóm “Xoa dịu căng thẳng” được các em sử dụng tương đối đồng đều. Trong đó, tự an ủi bản thân về sự may mắn của mình (IIIA3), tham gia các hoạt động giải trí (IIIB2) và hoạt động yêu thích (IIIB4) là những cách thức được sử dụng thường xuyên hơn. Ngược lại, chấp nhận thực tế khách quan là sự việc đã xảy ra (IIIA1) và hành động khóc, hét to hoặc ngủ (IIIB3) được sử dụng ít hơn nhưng vẫn ở mức độ khá thường xuyên. Mặc dù những cách ƯP trong nhóm “Xoa dịu căng thẳng” không giúp trẻ giải quyết vấn đề khó khăn, chúng hữu ích về mặt tâm lý, đặc biệt là với HS THPT, lứa tuổi khó có điều kiện giải quyết triệt để các vấn đề khó khăn trong gia đình. Nếu thành công trong việc giảm nhẹ căng thẳng, cuộc sống tinh thần của các em sẽ đỡ nặng nề, từ đó có thể tập trung vào hoạt động học tập, rèn luyện. Như vậy, “Xoa dịu căng thẳng” là nhóm ƯP không hiệu quả trong việc giải quyết khó khăn nhưng lại có hiệu quả trong việc giảm thiểu căng thẳng. 3.1.4. Nhóm “Lảng tránh” Bảng 4. Mức độ thường xuyên sử dụng nhóm ứng phó “Lảng tránh” IV. LẢNG TRÁNH ĐTB ĐLC A. Lảng tránh về mặt nhận thức 1,71 0,38 1. Tôi xem như chưa từng có vấn đề gì xảy ra 1,62 0,64 2. Tôi phớt lờ, xem đó không phải là việc của mình 1,57 0,56 3. Tôi giải quyết vấn đề bằng tưởng tượng thay cho thực hiện trong thực tế 1,72 0,66 4. Tôi hy vọng có phép màu xảy ra 1,91 0,73 B. Hành động lảng tránh 1,78 0,37 1. Tôi vùi đầu vào chơi điện tử, đọc sách, truyện để không còn thời gian 1,53 0,67 142 NGUYỄN DIỆU THẢO NGUYÊN - TRẦN THỊ TÚ ANH quan tâm đến những khó khăn 2. Tôi tránh xa những thứ khiến tôi cảm thấy buồn phiền 2,26 0,66 3. Tôi né tránh những người làm tôi buồn bằng cách đi thẳng về phòng 1,98 0,72 4. Tôi hoàn toàn không làm gì để giải quyết vấn đề 1,35 0,55 Chung cho nhóm 1,74 0,30 Với ĐTB là 1,74, nhóm ƯP “Lảng tránh” được lựa chọn ở mức trung bình và thấp hơn so với ba nhóm ƯP ở trên chứng tỏ HS ít sử dụng các cách ƯP này. Các cách ƯP lảng tránh thường chỉ giúp các em tạm thời “quên” đi khó khăn trong hiện tại chứ không giúp trẻ giải quyết khó khăn hay giảm thiểu cảm giác căng thẳng, lo lắng. Chính vì vậy, việc không sử dụng thường xuyên nhóm ƯP này, đặc biệt là cách ƯP“hoàn toàn không làm gì để giải quyết vấn đề” (ĐTB = 1,35), là biểu hiện mang tính tích cực. Xét riêng từng cách ƯP cụ thể, “Tôi hi vọng có phép màu xảy ra” và tiếp theo là “Tôi giải quyết vấn đề bằng tưởng tượng thay cho thực hiện trong thực tế” được sử dụng khá thường xuyên. Kết quả này xem ra phản ánh đặc điểm tâm lý của lứa tuổi HS THPT là còn nhiều mộng mơ, thiếu tính thực tế, cộng với khả năng giải quyết vấn đề còn hạn chế. Ngoài ra, các em cũng sử dụng cách ƯP “tránh xa những thứ khiến tôi cảm thấy bực bội” và“né tránh những người làm tôi buồn” với mức độ thường xuyên khá cao. Do tính thiếu hiệu quả của các cách ƯP lảng tránh, các nhà giáo dục và phụ huynh cần tác động nhằm giảm mức độ sử dụng thường xuyên những nội dung trên. 3.1.5. Nhóm “Kiểu ứng phó tiêu cực” Bảng 5. Mức độ thường xuyên sử dụng nhóm “Kiểu ứng phó tiêu cực” V. KIỂU ỨNG PHÓ TIÊU CỰC ĐTB ĐLC A. Suy nghĩ theo hướng tiêu cực 1,26 0,32 1. Tôi nghĩ đời tôi chẳng còn ý nghĩa 1,26 0,50 2. Tôi có ý định tự vẫn (hoặc thường nghĩ đến cái chết) 1,20 0,44 3. Tôi nghĩ rằng đó là lỗi của người khác, tôi không có trách nhiệm 1,33 0,52 B. Hành động theo hướng tiêu cực 1,27 0,25 1. Tôi ném, đập vỡ thứ gì đó, la hét, chửi thề, cãi vã với mọi người 1,24 0,46 2. Tôi bỏ nhà đi lang thang, ít ở nhà mình 1,12 0,37 3. Tôi tìm đến rượu, bia, thuốc lá, chất kích thích... để giải sầu 1,07 0,30 4. Tôi tự gây thương tích cho bản thân như một cách để giảm nhẹ nỗi buồn 1,13 0,39 5. Tôi tự trách cứ, dày vò bản thân 1,69 0,58 6. Tôi cô lập mình, không muốn gặp gỡ người khác 1,37 0,57 Chung cho nhóm 1,27 0,25 Bảng 5 cho thấy ĐTB chung cho cả nhóm Ứng phó tiêu cực là thấp (1,27 so với ĐTB tối thiểu là 1). Bên cạnh đó, xét theo từng cá nhân, có 93,6% HS chọn cách ƯP tiêu cực ở mức thường xuyên thấp (từ 1 đến 1,67). Các cách ƯP tiêu cực thường không những không đem lại lợi ích cho người sử dụng mà còn có thể ảnh hưởng tiêu cực đến người đó cũng như xã hội. Chính vì vậy, việc ít sử dụng các cách ƯP tiêu cực của đại đa số HS là một điểm mạnh trong KNƯP của nhóm khách thể nghiên cứu. KỸ NĂNG ỨNG PHÓ VỚI NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG GIA ĐÌNH CỦA HỌC SINH THPT... 143 Tuy nhiên, thực trạng cũng cho thấy có 1 em (0,4%) sử dụng kiểu ƯP tiêu cực ở mức độ thường xuyên cao ( X = 2,42) và 15 em, chiếm 6%, ở mức độ thường xuyên trung bình (từ 1,67 đến 2,33). Bên cạnh đó, đáng lưu ý là có 4 em (chiếm 1,6%) chọn mức độ “Thường xuyên”, và 43 em (chiếm 16,9%) chọn mức độ “Thỉnh thoảng” với nội dung “Tôi có ý định tự vẫn”. Kết quả phỏng vấn 7 em trong số đó cho thấy có tới 4 em đã từng thực hiện hành vi tự vẫn và có em thậm chí đã thử đến ba lần. Mặc dù số HS sử dụng kiểu ƯP tiêu cực ở mức độ thường xuyên trung bình và cao này không nhiều, đây vẫn là điều cần được các thầy cô giáo, phụ huynh đặc biệt quan tâm nhằm ngăn chặn những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra. Hai tiểu nhóm “Suy nghĩ theo hướng tiêu cực” và “Hành động theo hướng tiêu cực” có mối tương quan thuận với nhau (r = 0,48 với p<0,001). Điều này có nghĩa là HS có suy nghĩ tiêu cực thường hướng đến việc sử dụng hành động tiêu cực trong ƯP của mình. Vì thế ngay khi phát hiện những suy nghĩ tiêu cực của các em thì người lớn cần quan tâm, ngăn chặn kịp thời, tránh để xảy ra những hành động tiêu cực. Xét mối quan hệ giữa năm nhóm ƯP vừa trình bày ở trên, kết quả thu được cho thấy nhóm “Ứng phó tích cực chủ động” có tương quan thuận với “Tìm kiếm sự hỗ trợ” (r=0,41; p<0,001) và “Xoa dịu căng thẳng” (r=0,38; p<0,001). Điều này có nghĩa những HS lựa chọn ƯP tích cực, chủ động cũng thường tìm kiếm sự hỗ trợ cũng như tìm cách xoa dịu căng thẳng và ngược lại. Bên cạnh đó, “Ứng phó tiêu cực” tương quan thuận với “Lảng tránh” (r=0,51; p<0,001), chứng tỏ những HS lựa chọn ƯP tiêu cực cũng thường chọn cách lảng tránh vấn đề khó khăn và ngược lại. Kết quả nghiên cứu cho thấy 5 nhóm ƯP trên được chia thành 3 nhóm dựa trên tính tích cực: (1) nhóm tích cực gồm ƯP tích cực chủ động và tìm kiếm sự hỗ trợ; (2) nhóm tiêu cực gồm lảng tránh và ƯP tiêu cực; (3) nhóm trung gian gồm xoa dịu căng thẳng, có thể tiêu cực nhưng cũng có thể tích cực. Mức độ thường xuyên sử dụng từng nhóm ƯP này cung cấp những thông tin hữu ích về mức độ phát triển của KNƯP. Mức độ phát triển của KN ứng phó cao hơn nếu cá nhân sử dụng những cách ƯP ở nhóm (1) thường xuyên hơn, ở nhóm (2) ít hơn. Việc sử dụng các cách ƯP ở nhóm (3) cần được xem xét kết hợp với mức độ thường xuyên sử dụng hai nhóm trên: Mức độ phát triển KNƯP cao hơn nếu các cách ƯP ở nhóm (3) được sử dụng kết hợp nhiều hơn với nhóm (1) và ít hơn với nhóm (2). 3.2. Cách ứng phó của HS với khó khăn trong gia đình xét theo giới tính và trường 3.2.1. Theo giới tính Nhìn chung, HS nam lựa chọn cách ƯP tích cực, chủ động nhiều hơn các HS nữ (t252=2,12; p<0,05). Ngược lại, các em nữ có xu hướng sử dụng các cách ƯP “Tìm kiếm chỗ dựa tình cảm” (t252= 2,99; p<0,01), “Tìm kiếm sự giúp đỡ để giải quyết vấn đề” (t252=2,15; p<0,05) nhiều hơn. Ở nhóm “Ứng phó tiêu cực”, các em nữ có suy nghĩ tiêu cực nhiều hơn nhưng các em nam lại có hành vi tiêu cực nhiều hơn. Khi gặp khó khăn, các em nam thường tự tìm cách giải quyết hoặc thực hiện hành động nào đó để xoa dịu căng thẳng, cách thể hiện ra ngoài có thể tích cực nhưng cũng có thể tiêu cực. Ngược 144 NGUYỄN DIỆU THẢO NGUYÊN - TRẦN THỊ TÚ ANH lại, HS nữ chủ yếu lựa chọn cách ƯP trong nhận thức hoặc trong quan hệ xã hội như chia sẻ, xin lời khuyên, nhờ người khác giải quyết vấn đề nhiều hơn. Như vậy, có thể thấy đặc điểm giới được thể hiện khá rõ nét trong việc lựa chọn cách ƯP của HS THPT TP Huế và điều này cũng tương đồng với các nghiên cứu trước về KNƯP [2]. Đây là một vấn đề cần được quan tâm trong các chương trình giáo dục KNƯP. 3.2.2. Theo trường Bảng 6. Tỉ lệ học sinh các trường sử dụng các nhóm ứng phó (%) Quốc Học (QH) Gia Hội (GH) Bùi Thị Xuân (BTX) Thấp TB Cao Thấp TB Cao Thấp TB Cao Ứng phó tích cực, chủ động 1,2 57,1 41,7 4,6 63,2 32,2 1,2 65,1 33,7 Tìm kiếm sự hỗ trợ 32,1 58,3 9,5 14,9 67,8 17,2 22,9 68,7 8,4 Xoa dịu căng thẳng 3,6 65,5 31,0 4,6 49,4 46,0 2,4 54,2 43,4 Lảng tránh 54,8 45,2 0,0 40,2 55,2 4,6 39,8 55,4 4,8 Ứng phó tiêu cực 100,0 0,0 0,0 89,7 9,2 1,2 91,6 8,4 0,0 Ghi chú: cao: ĐTB từ 2,33 đến 3; trung bình: từ 1,67 đến 2,33; thấp: từ 1 đến 1,67 LUCKY 10/16/09 8:06 AM Bảng 6 cho thấy trong khi HS trường GH và BTX có KNƯP với khó khăn trong gia Formatted: Space Before: 6 pt đình khá tương đồng thì HS QH có xu hướng sử dụng nhóm “Ứng phó tích cực, chủ động” với mức độ cao nhiều hơn, sử dụng “Xoa dịu căng thẳng” ở mức độ cao ít hơn, sử dụng “Lảng tránh” và “Ứng phó tiêu cực” ở mức độ thấp nhiều hơn (“Lảng tránh” có F(2,251)=6,30; p<0,01; “Ứng phó tiêu cực” có F(2,251)=3,70; p<0,05). Với đặc điểm về tính tích cực của mỗi nhóm ƯP như đã trình bày ở trên, kết quả này chỉ ra rằng HS QH có xu hướng có KNƯP phát triển ở mức cao hơn so với HS hai trường còn lại. Tuy nhiên, mặc dù “Tìm kiếm sự hỗ trợ” được xem là nhóm ƯP mang tính tích cực, số HS QH sử dụng nhóm ƯP này ở mức độ thấp nhiều hơn so HS GH và BTX (F(2,251)=4,63; p<0,05). Kết quả này có thể liên quan đến mức độ tự tin của HS QH đối với khả năng tự giải quyết vấn đề, thói quen độc lập trong giải quyết vấn đề hoặc các yếu tố khác, cần được tiếp tục nghiên cứu để làm rõ. Sự khác biệt trong KNƯP giữa HS trường QH và HS GH và BTX có thể phản ánh sự khác biệt trong môi trường giáo dục giữa các trường cũng như đặc điểm về học lực và hoàn cảnh gia đình của HS. Cần lưu ý rằng trường QH là trường điểm Quốc gia, nơi tập trung các HS giỏi đến từ các trường ở trong và ngoài tỉnh Thừa Thiên Huế thông qua quá trình tuyển chọn khá gắt gao. 4. KẾT LUẬN Nhìn chung, HS THPT TP Huế có KNƯP với những khó khăn trong gia đình thể hiện ở việc sử dụng những nhóm ƯP mang tính tích cực, phù hợp nhiều hơn, những nhóm ƯP tiêu cực, thụ động, không phù hợp ít hơn. Yếu tố giới và trường học có liên quan đến việc lựa chọn nhóm/cách ƯP và KNƯP của các em. Tuy nhiên, xét riêng từng cách ƯP cụ thể và từng cá nhân HS cụ thể, có một số cách ƯP tiêu cực, thụ động, không phù hợp được một số HS sử dụng ở mức độ khá thường KỸ NĂNG ỨNG PHÓ VỚI NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG GIA ĐÌNH CỦA HỌC SINH THPT... 145 xuyên. Điều này cần được các nhà nghiên cứu tìm hiểu thêm, được xã hội, đặc biệt là thầy cô giáo và phụ huynh, quan tâm thông qua các chương trình trợ giúp ƯP và giáo dục KNƯP cho các em. Từ kết quả nghiên cứu thực trạng, chúng tôi đề xuất một số biện pháp giáo dục KNƯP cho HS THPT như sau: Xây dựng mối quan hệ gia đình hoà thuận, đối xử với trẻ công bằng, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi Bên cạnh đó, gia đình cần là tấm gương mẫu mực trong việc lựa chọn cách ƯP tích cực, có hiệu quả và là những người hướng dẫn, động viên trẻ rèn luyện hình thành KNƯP ngay từ nhỏ. Giáo dục KNƯP cho các em thông qua các hình thức khác nhau, như tích hợp trong chương trình học nội khoá, tổ chức các buổi trao đổi ngoại khoá, các cuộc thi về những vướng mắc trẻ thường gặp trong thực tế và cách giải quyết chúng hoặc bình chọn cách ƯP hay nhất cũng như chỉ ra cách ƯP dở nhất trước các tình huống khó khăn trong gia đình để trẻ có thể học hỏi. Thông qua các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao, sinh hoạt tập thể để tăng cường tình đoàn kết trong trường, từ đó các em có thể chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, sống vui vẻ và giảm đi những suy nghĩ bi quan, tiêu cực. Giáo viên chủ nhiệm cần hiểu rõ hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm sinh lý, KNƯP với khó khăn của từng HS trong lớp mình, quan tâm đến những em có hoàn cảnh đặc biệt để can thiệp kịp thời khi có dấu hiệu bất thường. Phối hợp với gia đình để giáo dục HS có hiệu quả. Nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở những khó khăn trong gia đình, trong khi các em còn phải ƯP với nhiều khó khăn khác nữa. Chính vì vậy, cần có thêm những nghiên cứu về KNƯP với các loại khó khăn khác của HS THPT cũng như mở rộng sang các lứa tuổi khác, đặc biệt là HS Trung học cơ sở, lứa tuổi có nhiều vấn đề cần được quan tâm. Ngoài ra, cần có những nghiên cứu thử nghiệm các biện pháp tác động nhằm trợ giúp và giáo dục KNƯP cho HS THPT và các nhóm khách thể khác. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Phan Thị Mai Hương (chủ biên) (2007), Cách ứng phó của trẻ vị thành niên với hoàn cảnh khó khăn, NXB Khoa học xã hội. [2] Frydenberg, Erica (2008), Adolescent Coping - Advances in Theory, Research and Practice, The Taylor & Francis e-Library. [3] Program For Prevention Research - Arizona State University (1999), Manual For The Children’s Coping Strategies Checklist & The How I Coped Under Pressure Scale, [4] Mittler, Jane A. (2007), The Use of Coping Skills to Reduce the Negative Consequences of Stress in Adolescence, University of Missouri - Columbia, 146 NGUYỄN DIỆU THẢO NGUYÊN - TRẦN THỊ TÚ ANH Title: COPING SKILLS TO FAMILY PROBLEMS OF HIGH SCHOOL STUDENTS OF HUE CITY LUCKY 10/16/09 8:06 AM Deleted: Abstract: Coping skills have attracted the concern of many psychologists over the world in recent years. However, there have not been many studies on this issue in Vietnam. In order to contribute to this field of study with practical basis, we present results of a study on real situation of coping skills to family problems of High School students in Hue city and some suggestions for coping skills education. NGUYỄN DIỆU THẢO NGUYÊN Học viên Cao học chuyên ngành Tâm lý học, Khóa 16 (2007-2009), Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế. TS. TRẦN THỊ TÚ ANH Phó Trưởng phòng Khoa học - Công nghệ - HTQT, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế.
File đính kèm:
- ky_nang_ung_pho_voi_nhung_kho_khan_trong_gia_dinh_cua_hoc_si.pdf