Kiến thức, thái độ, và hành vi của nhân viên y tế về nghề công tác xã hội tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ, hành vi của nhân viên y tế về nghề công tác xã hội tại
Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2019.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế mô tả cắt ngang với 90 nhân viên y tế làm việc tại các khoa lâm
sàng thuộc 3 nhóm bệnh: cấp tính, mãn tính và nhóm hồi sức tại Bệnh viện Nhi Trung ương (18/879 La
Thành, Đống Đa, Hà Nội) năm 2019.
Kết quả: Kết quả nghiên cứu cho thấy nhân viên y tế tại bệnh viện Nhi Trung ương có kiến thức về nghề
công tác xã hội ở mức trung bình (48,9%). Phần lớn nhân viên y tế có thái độ tích cực về nghề công tác
xã hội (80%) đồng thời có hành vi trong việc tương tác phù hợp (75,6%) với nhân viên công tác xã hội.
Kết luận: Việc nâng cao kiến thức của nhân viên y tế về nghề công tác xã hội trong bệnh viện là hết sức
cần thiết. Đây là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất chượng cũng như vai trò
của các hoạt động công tác xã hội trong bệnh viện.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thái độ, và hành vi của nhân viên y tế về nghề công tác xã hội tại Bệnh viện Nhi Trung ương
này có liên quan đến định nghĩa về CTXH trong bệnh viện. Có 38,9% NVYT lưỡng lự và 38,9% NVYT cho rằng CTXH có liên quan/ hoàn toàn liên quan đến việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ sau xuất viện; chỉ có 20% NVYT cho rằng không liên quan/ hoàn toàn không liên quan. Bảng 2. Kiến thức của NVYT về các nội dung liên quan với định nghĩa CTXH trong bệnh viện. STT Nội dung Mức độ liên quan Hoàn toàn không liên quan/ không liên quan Lưỡng lự Liên quan/ hoàn toàn liên quan n % n % n % 1 Một ngành nghề chuyên môn 11 12,2 23 25,6 56 62,2 2 Tập trung vào mối quan hệ giữa tình trạng bệnh của người bệnh và các vấn đề xã hội của họ 7 7,8 17 18,9 66 73,3 3 Cung cấp dịch vụ tham vấn và tâm lý giáo dục 14 15,5 25 27,8 51 56,7 4 Hoạt động từ thiện 2 2,2 9 10 79 87,8 5 Chăm sóc người bệnh thay người nhà 41 45,5 33 36,7 16 17,8 6 Cung cấp dịch vụ hỗ trợ sau xuất viện 20 22,2 35 38,9 35 38,9 Bảng 3 trình bày về nội dung đánh giá vai trò của nhân viên CTXH trong bệnh viện, qua kết quả khảo sát cớ thể thấy đại đa số (93,3%) NVYT cho rằng từ thiện (gây quỹ cho người bệnh nghèo) là một vai trò của nhân viên CTXH; đồng thời nhân viên CTXH có vai trò tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí, hỗ trợ NVYT có hoàn cảnh Dương Thị Minh Thu 102 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) khó khăn (81,1%) và Chăm sóc khách hàng (62,2%); tuy nhiên, chỉ có 18,9% NVYT cho rằng CTXH đánh giá kết quả điều trị. Đây là những nhận định chưa chính xác về vai trò của nhân viên CTXH trong bệnh viện. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy đã có số lượng lớn NVYT đánh giá cao về các vai trò: Cung cấp thông tin hướng dẫn (78,9%); đánh giá, lập kế hoạch và can thiệp các vấn đề tài chính của người bệnh (67,8%); dẫn dắt các nhóm đồng đẳng cho người bệnh mắc một số bệnh đặc biệt (61,1%); tham vấn cho người bệnh và gia đình (60%) hay cải tiến chất lượng y khoa của bệnh viện (54,4%); Các vai trò: can thiệp khủng hoảng (50%); quản lý trường hợp (45,6%); giáo dục người bệnh và gia đình người bệnh (44,4%) và đánh giá, chẩn đoán, lập kế hoạch và can thiệp các vấn đề tâm lý xã hội của người bệnh (41,1%) có tỷ lệ NVYT lựa chọn ở mức trung bình. Bảng 3. Kiến thức của NVYT về vai trò của nhân viên CTXH trong bệnh viện tại bệnh viện Nhi Trung ương STT Nội dung Tần số (n) Tỷ lệ (%) 1 Đánh giá, chẩn đoán, lập kế hoạch và can thiệp các vấn đề tâm lý xã hội của người bệnh 37 41,1 2 Đánh giá, lập kế hoạch và can thiệp các vấn đề tài chính của người bệnh 61 67,8 3 Quản lý trường hợp 41 45,6 4 Tham vấn cho người bệnh và gia đình 54 60 5 Cung cấp thông tin hướng dẫn 71 78,9 6 Can thiệp khủng hoảng 45 50 7 Cải tiến chất lượng dịch vụ y khoa của bệnh viện 49 54,4 8 Giới thiệu, chuyển gửi và phát triển nguồn nhân lực cần có cho người bệnh 34 37,8 9 Lập kế hoạch xuất viện cho người bệnh 23 25,6 10 Tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí, hỗ trợ NVYT có hoàn cảnh khó khăn 73 81,1 11 Chăm sóc khách hàng 56 62,2 12 Đánh giá kết quả điều trị 17 18,9 13 Dẫn dắt các nhóm đồng đẳng cho người bệnh mắc một số bệnh đặc biệt 55 61,1 14 Giáo dục người bệnh và gia đình 40 44,4 15 Từ thiện ( gây quỹ cho người bệnh nghèo) 84 93,3 Dương Thị Minh Thu 103 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) Thực trạng thái độ của NVYT về nghề CTXH trong bệnh viện tại bệnh viện Nhi Trung ương Biểu đồ 2 cho thấy phần lớn NVYT đều có thái độ tích cực với các hoạt động CTXH trong bệnh viện (80%), thái độ chưa tích cực chiếm 20%. Biểu đồ 2. Thái độ của NVYT về CTXH trong bệnh viện tại bệnh viện Nhi Trung ương. Đơn vị % Kết quả bảng 4 cho thấy số NVYT đồng ý/ hoàn toàn đồng ý với nhận định người bệnh cần được trợ giúp về mặt xã hội của nhân viên CTXH chiếm tỷ lệ cao (83,3%), chỉ có 2,2% NVYT hoàn toàn không đồng ý/ không đồng ý với nhận định này. 63,3% NVYT cho rằng CTXH có thể giúp nâng cao kết quả điều trị. Trong số các nội dung về thái độ “tiêu cực“ (nội dung 2, 3, 4, 5 bảng 4): 54,5% NVYT hoàn toàn không đồng ý/ đồng ý với quan điểm nhân viên CTXH không nên làm việc trong nhóm điều trị. 48,9%, NVYT hoàn toàn không đồng ý/ không đồng ý với quan niệm cho rằng nhân viên CTXH không có đủ kiến thức để làm việc trong nhóm điều trị. 45,6% cho rằng nhân viên CTXH có đủ kỹ năng để làm việc trong nhóm điều trị tuy nhiên số NVYT còn lưỡng lự về nội dung này chiếm tới 34,4%; 46,7% NVYT không đồng ý/ hoàn toàn không đồng ý với nhận định Bác sỹ và điều dưỡng nên ra quyết định cho nhân viên CTXH (NVYT còn lưỡng lự chiếm 32,2%). Bảng 4. Thái độ của NVYT với một số nhận định về CTXH trong bệnh viện tại bệnh viện Nhi Trung ương STT Nội dung Hoàn toàn không đồng ý/ Không đồng ý Lưỡng lự Đồng ý/ hoàn toàn đồng ý n % n % n % 1 CTXH có thể giúp nâng cao chất lượng điều trị 8 8,9 25 27,8 57 63,3 Dương Thị Minh Thu 104 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) 2 NV CTXH không có đủ kiến thức để làm việc trong nhóm điều trị 44 48,9 21 23,3 25 27,8 3 NV CTXH không có đủ kỹ năng để làm việc trong nhóm điều trị 41 45,6 31 34,4 18 20 4 Bác sỹ và điều dưỡng nên ra quyết định cho nhân viên CTXH 42 46,7 29 32,2 19 21,1 5 NV CTXH không nên làm việc trong nhóm điều trị 49 54,5 30 33,3 11 12,2 6 Người bệnh cần được trợ giúp về mặt xã hội của NV CTXH 2 2,2 13 14,5 75 83,3 Thực trạng hành vi của NVYT trong việc tương tác với nhân viên CTXH tại bệnh viện Nhi Trung ương Biểu đồ 3 cho thấy mức độ tương tác phù hợp của NVYT với nhân viên CTXH tại bệnh viện Nhi Trung ương chiếm tỷ lệ cao (75,6%). Mức độ tương tác chưa phù hợp chiếm 24,4%. Con số này khá tương đồng với tỷ lệ NVYT có thái độ tích cực và chưa tích cực với nghề CTXH trong bệnh viện. Biểu đồ 3. Mức độ tương tác của NVYT với nhân viên CTXH trong bệnh viện tại bệnh viện Nhi Trung ương. Bảng 5 cho thấy: 61,1% số NVYT được khảo sát trả lời họ thường xuyên/ rất thường xuyên tìm kiếm những dịch vụ hỗ trợ xã hội từ nhân viên CTXH và chuyển gửi người bệnh có nhu cầu đến phòng CTXH (56,7%). 45,5% NVYT trả lời họ thường xuyên/ rất thường xuyên thảo luận với nhân viên CTXH về vấn đề xã hội của người bệnh. Kết quả bảng 5 cũng cho thấy vẫn còn tỷ lệ lớn (40%) NVYT không bao giờ/ hiếm khi thảo luận với NV CTXH về các vấn đề sức khỏe tâm thần của người bệnh, 34,4% không bao giờ/ hiếm khi làm việc Dương Thị Minh Thu 105 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) trong cùng một nhóm với nhân viên CTXH. 5,5% NVYT còn lưỡng lự, 27,8% không bao giờ/ hiếm khi thảo luận với nhân viên CTXH về bệnh lý của người bệnh. Trong khi việc thảo luận này là một trong những nội dung không thể thiếu giúp nhân viên CTXH bệnh viện lên kế hoạch trợ giúp người bệnh cũng như gia đình người bệnh. Bảng 5. Hành vi của NVYT trong việc tương tác với nhân viên CTXH tại bệnh viện Nhi Trung ương STT Nội dung Mức độ tương tác Không bao giờ/ Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên/ rất thường xuyên n % n % n % 1 Thảo luận với NV CTXH về vấn đề xã hội của người bệnh 14 15,6 35 38,9 41 45,5 2 Thảo luận với NV CTXH về bệnh lý của người bệnh 25 27,8 41 45,5 24 26,7 3 Thảo luận với NV CTXH về các vấn đề sức khỏe tâm thần của người bệnh 36 40 25 27,8 29 32,2 4 Làm việc trong cùng một nhóm với Nv CTXH 31 34,4 29 32,2 30 33,3 5 Chuyển gửi người bệnh có nhu cầu đến phòng CTXH 11 12,2 28 31,1 51 56,7 6 Tìm kiếm những dịch vụ hỗ trợ xã hội từ NV CTXH cho người bệnh 7 7,8 28 31,1 55 61,1 7 Yêu cầu sự tư vấn của NV CTXH 21 23,4 40 44,4 29 32,2 BÀN LUẬN Về kiến thức Qua kết quả khảo sát có thể thấy kiến thức của đội ngũ NVYT về CTXH trong bệnh viện tại Bệnh viện Nhi Trung ương ở mức trung bình (48,9%), tỷ lệ NVYT có kiến thức thấp vẫn còn cao ( 45,5%), tỷ lệ NVYT có kiến thức tốt mới chỉ chiểm 5,6%. Tỷ lệ nhân viên y tế tại Bệnh viện Nhi Trung ương có kiến thức tốt về CTXH cao hơn so với nghiên cứu của tác giả Trương Nguyễn Xuân Quỳnh năm 2017 (5). Tuy nhiên theo thang điểm các NVYT có số điểm dao động trong khoảng từ 14 đến 15,5 điểm, đồng thời điểm của nhóm NVYT có kiến thức trung bình dao động trong khoảng 20 đến 22,5 điểm chiếm tỷ lệ cao. Điều này cho thấy việc tổ chức tập huấn nâng cao kiến thức về nghề CTXH cho đội ngũ NVYT là hết sức cần thiết nhằm giúp họ hiểu đúng và đầy đủ về nghề CTXH trong bệnh viện. Việc nhận thức không đầy đủ và kỹ lưỡng dẫn đến việc NVYT đã đánh đồng các hoạt động công tác xã hội với hoạt động từ thiện từ đó đánh giá Dương Thị Minh Thu 106 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) thấp vai trò của CTXH trong bệnh viện cũng như vai trò của các nhân viên CTXH trong bệnh viện. Hai vai trò được NVYT đánh giá cao nhất là: Từ thiện 93,3%, tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí, hỗ trợ NVYT có hoàn cảnh khó khăn 81,1%. Hai vai trò này không nằm trong danh sách vai trò chuyên nghiệp của nhân viên CTXH ở nhiều nước trên thế giới (2, 3). Tuy nhiên vai trò cung cấp thông tin hướng dẫn được quy định trong thông tư 43 của Bộ Y tế cũng đã được đánh giá cao (78,9%). Mặc dù CTXH trong bệnh viện còn là một nghề mới ở Việt Nam. Song, Bệnh viện Nhi Trung ương là một trong những bệnh viện tiên phong phát triển các hoạt động CTXH trong cả nước. Tổ CTXH được thành lập tại bệnh viện từ năm 2008. Sau 1 quá trình phấn đấu không ngừng của đội ngũ làm CTXH, tháng 5 năm 2011 Phòng CTXH được thành lập (trước khi đề án “Phát triển nghề CTXH trong ngành Y tế giai đoạn 2011 – 2020” còn chưa được ban hành 15/7/2011). Phòng vinh dự được Bộ Y tế chọn làm mô hình điểm của khu vực phía Bắc về CTXH trong bệnh viện đồng thời nhận được sự quan tâm chỉ đạo rất sát sao từ các cấp lãnh đạo. Bệnh viện cũng đã tổ chức các khóa tập huấn, hội thảo nhằm nâng cao nhận thức của đội ngũ NVYT về CTXH trong bệnh viện đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt. Theo số liệu thu thập được đã có 32,2% số NVYT đã tham gia tập huấn CTXH (Tỷ lệ này thuộc về đội ngũ lãnh đạo chủ chốt của các khoa). Đây là một lợi thế trong việc nâng cao kiến thức của NVYT về nghề CTXH trong bệnh viện cũng như phát triển CTXH trong bệnh viện theo hướng chuyên nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy đội ngũ NVYT của bệnh viện có sự tương tác thường xuyên với nhân viên CTXH. Tuy nhiên NVYT có kiến thức thấp về nghề CTXH trong bệnh viện chiếm tỷ lệ còn cao (45,5%) do bệnh viện mới chú trọng tập huấn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt là lãnh đạo và điều dưỡng trưởng của khoa, đội ngũ nhân viên chưa được tiếp cận nhiều với các lớp tập huấn này. Theo khảo sát có tới 61% số NVYT được phỏng vấn trả lời là học chưa từng được tham gia bất kỳ khóa đào tạo nào liên quan đến CTXH. Các khóa tập huấn cũng chưa được mở thường xuyên và còn hạn chế. Về thái độ Mặc dù kiến thức về nghề CTXH trong bệnh viện còn ở mức trung bình nhưng thái độ tích cực liên quan tới CTXH trong bệnh viện vẫn chiếm tỷ lệ cao (80%). Tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu của Trương Nguyễn Xuân Quỳnh năm 2017 (5). Trong tiến trình hoạt động của mình, phòng CTXH đã khẳng định được vai trò và vị trí của mình trong các hoạt động hỗ trợ người bệnh, gia đình người bệnh và NVYT. 100% bệnh nhi có hoàn cảnh khó khăn điều trị tại bệnh viện được Phòng CTXH tiếp nhận và kết nối hỗ trợ về mọi mặt: Chi phí chữa bệnh, chi phí sinh hoạt, các hoạt động vui chơi giải trí... góp phần nâng cao chất lượng điều trị. Từ khi phòng CTXH được thành lập bệnh viện không còn hiện tượng trốn viện hay không có tiền phải bỏ dở điều trị. Với những kết quả mà phòng CTXH mang lại đã làm thay đổi thái độ của đội ngũ NVYT. Bên cạnh đó, bệnh viện đã xây dựng và ban hành các quy trình về hoạt động CTXH trong bệnh viện và chỉ thị toàn bộ NVYT phải chấp hành nghiêm chỉnh. Về hành vi Thái độ tích cực sẽ dẫn đến những hành vi tích cực. Tỷ lệ NVYT có hành vi tương tác phù hợp với nhân viên CTXH chiếm tới 75,6%. Có 24,4% NVYT có hành vi tương tác chưa phù hợp với nhân viên CTXH do nhận thức của họ chưa đầy đủ và chính xác chính vì vậy họ có thái độ tiêu cực và hành vi chưa phù Dương Thị Minh Thu 107 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) hợp. Tỷ lệ NVYT có hành vi tương tác chưa phù hợp trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu của tác giả Trương Nguyễn Xuân Quỳnh năm 2017 (5). KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số nhân viên y tế tại Bệnh viện Nhi Trung ương có kiến thức về nghề CTXH ở mức trung bình (48,9%). Tuy nhiên phần lớn nhân viên y tế có thái độ tích cực về nghề CTXH (80%) đồng thời có mức độ tương tác phù hợp (75,6%) với nhân viên công tác xã hội. Nghiên cứu cũng cho thấy nhận thức của NVYT tại bệnh viện Nhi Trung ương có sự khác biệt so với định nghĩa về vai trò của CTXH trong bệnh viện trên thế giới và vẫn còn 1 số hiểu lầm về CTXH trong bệnh viện như việc đồng nhất các hoạt động từ thiện với các hoạt động CTXH. Hay từ chối việc làm việc trong cùng 1 nhóm với nhân viên CTXH Kiến thức, thái độ, hành vi về CTXH trong bệnh viện của những NVYT đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo có sự thay đổi rõ rệt sau khi được tham gia các buổi hội thảo cũng như tập huấn nâng cao năng lực CTXH trong bệnh viện. Từ kết quả này cho thấy cần thường xuyên duy trì tập huấn nhằm nâng cao nhận thức về công tác xã hội trong bệnh viện cho toàn bộ đội ngũ NVYT đặc biệt là nhóm nhân viên có các hoạt động tương tác trực tiếp với nhân viên CTXH tạo điều kiện phát triển việc hợp tác đa ngành trong các nhóm điều trị. Bên cạnh đó cần thường xuyên rà soát, đánh giá để có những điều chỉnh phù hợp góp phần đưa CTXH bệnh viện phát triển theo hướng chuyên nghiệp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ y tế, Quyết định số 2514 ban hành Đề án ”Phát triển nghề CTXH trong ngành Y tế giai đoạn 2011 – 2020”, ngày 15/7/2011. 2. (OASW) OAoSW. Công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe tại bệnh viện. Toronto, Ontario, Canada2016. 3. NSwCF-MoH Singapore. Hiểu vai trò và năng lực của nhân viên y tế xã hội. Singapore2015. 4. Báo cáo hoạt động công tác xã hội năm 2018 và phương hướng hoạt động năm 2020 – Phòng Công tác xã hội Bệnh viện Nhi Trung ương 5. Trương Nguyễn Xuân Quỳnh (2017) Kiến thức, thái độ và hành vi về công tác xã hội trong y tế của cán bộ y tế tại bệnh viện Ung bướu TP Hồ Chí Minh: handle/123456789/60303 Dương Thị Minh Thu
File đính kèm:
- kien_thuc_thai_do_va_hanh_vi_cua_nhan_vien_y_te_ve_nghe_cong.pdf