Khung lý thuyết trong nghiên cứu kế toán quản trị
TÓM TẮT
Kế toán quản trị là một hệ thống kế toán thu thập, xử lý và cung cấp thông tin cho các
quyết định của nhà quản trị liên quan đến hoạch định và kiểm soát các hoạt động của tổ
chức. Trong những năm qua, nghiên cứu kế toán quản trị cả trên thế giới cũng như trong
nước đã thoát ly thực tế sản xuất kinh doanh dẫn đến sự phân hóa giữa nghiên cứu, đào
tạo và thực hành kế toán quản trị. Nguyên nhân thì có nhiều, trong đó nguyên nhân chính
là do giới học thuật và những người hành nghề kế toán không kết nối với nhau trong hành
động. Giữa nghiên cứu học thuật và nghiên cứu hành nghề có sự khác nhau về khung lý
thuyết cũng như cách tiếp cận. Bài viết này giới thiệu khung lý thuyết nhằm làm cơ sở tham
khảo cho cả nghiên cứu học thuật cũng như nghiên cứu hành nghề trong kế toán quản trị.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khung lý thuyết trong nghiên cứu kế toán quản trị
o để thu hẹp khoảng trống này? Thông qua việc tìm hiểu, hệ thống hóa các nghiên cứu đã được công bố trên các tạp chí chuyên ngành trên thế giới và quan sát thực tế tại Việt nam, người viết đề xuất khung phân tích trong nghiên cứu kế toán quản trị với mục đích góp phần nhỏ vào việc đổi mới nghiên cứu, giảng dạy và thực hành kế toán quản trị theo thông lệ quốc tế, dưới góc nhìn của người làm công tác giảng dạy kế toán quản trị. 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 2.1. Nghiên cứu kế toán Từ nghiên cứu (Research) được ghép từ hai âm tiết (Re và search). Re là một tiền tố có nghĩa là lại, lần nữa; Search là một động từ có nghĩa là lục soát, khám xét. Hai âm tiết này kết hợp lại thành danh từ research có nghĩa là sự nghiên cứu và điều tra cẩn thận, kiên nhẫn, có hệ thống trong một vài lĩnh vực tri thức; được hứa hẹn củng cố các sự kiện hoặc các nguyên tắc (Dr. Kabir Tahir Hamid). “Nghiên cứu kế toán là nghiên cứu tác động của các sự kiện kinh tế lên quá trình tóm tắt, phân tích xác minh và báo cáo thông tin được chuẩn hóa; đồng thời, nghiên cứu tác động của thông tin kinh tế được báo cáo đến các sự kiện kinh tế” (Oler, Skousen, 2009). Chủ thể nghiên cứu kế toán bao gồm cả giới học thuật cũng như người hành nghề kế toán. “Nghiên cứu học thuật xem xét kế toán ảnh hưởng như thế nào đối với đời sống xã hội và ngược lại, đời sống xã hội tác động đến kế toán như thế nào” (Teresa P. Gordon và Jason C. Porter). Bằng việc kế thừa thành tựu của khoa học cơ bản và dữ liệu thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, nghiên cứu học thuật đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra kiến thức mới, như: xây dựng cơ sở khoa học cho việc xây dựng, lựa chọn và thực hiện các chuẩn mực kế toán, kiểm toán mới; trình bày và công bố các nghiệp vụ kinh tế bất thường trong báo cáo tài chính; nghiên cứu tác động của luật thuế mới đến doanh nghiệp và người sử dụng lao động; nhận thức được tác động của nghề kế toán đến thị trường vốn; Nghiên cứu học thuật trong kế toán được thực hiện theo một chuỗi các công việc bắt đầu từ việc lựa chọn lĩnh vực nghiên cứu, xem xét phê phán các nghiên cứu trước, xây dựng các giả thuyết nghiên cứu, thiết kế nghiên cứu để kiểm tra giả thuyết, tiến hành 71 nghiên cứu, phân tích kết quả và báo cáo kết quả nghiên cứu. (Taiwo Olalere, 2011) Nghiên cứu thực hành trong kế toán nói chung và kế toán quản trị nói riêng cũng phải trải qua một quá trình nghiêm ngặt, nhưng mục tiêu của nó là hướng vào việc ứng dụng tri thức khoa học vào thực tế đời sống xã hội. 2.2. Lý thuyết nghiên cứu kế toán quản trị Nghiên cứu kế toán quản trị đã có một lịch sử lâu đời trên thế giới, trong quá trình đó, các nhà nghiên cứu đã sử dụng nhiều lý thuyết khác nhau (Scapens và Bromwich, 2010). Khởi đầu là ứng dụng lý thuyết toán vào việc nghiên cứu kế toán quản trị, nhưng kết quả nghiên cứu không như mong muốn (Scapens, 2006). Kế đến, một số nhà nghiên cứu đã tiếp cận lý thuyết tình thể (contingency theory) trong nghiên cứu (Chapman, 1997; Chenhall, 2003; Scapens, 2006). Lý thuyết tình thế được rút ra từ việc nghiên cứu về tổ chức; theo đó, việc ứng dụng thành công kế toán quản trị trong doanh nghiệp phụ thuộc vào các nhân tố: môi trường, công nghệ, qui mô và cơ chế quản lý của doanh nghiệp. Gần đây, (Chenhall, 2003) đã bổ sung thêm các nhân tố chiến lược công ty và văn hóa tổ chức cũng là nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng kế toán quản trị trong doanh nghiệp. Lý thuyết tình thế được xem là cách tiếp cận tiêu biểu trong nghiên cứu thực chứng (Malmi và Granlund, 2009). Vì vậy, cho đến nay lý thuyết tình thế vẫn là một trong những cách tiếp cận phổ biến trong nghiên cứu kế toán quản trị (Chenhall, 2006). Khi nghiên cứu sự thay đổi của thực hành kế toán quản trị, các nhà nghiên cứu Burns và Scapens (2000), Scapens (2006), Rautiainen và Jarvenpaa (2012),trên cơ sở lý thuyết kinh tế, tập trung vào các lý thuyết xã hội (Social theory), lý thuyết tổ chức (Organizational theory) và lý thuyết thể chế (Institutional theory) trong nghiên cứu của mình. Lý thuyết thể chế phản ánh ý tưởng về tính đa dạng liên quan đến hành vi của cá nhân trong tổ chức. Trong những năm đầu thế kỷ 21, lý thuyết giải thích, được chấp nhận trong kế toán quản trị, đã sử dụng lý thuyết cơ chế trong các nghiên cứu của mình (Coad và Herbert, 2009; Scapens, 2006; Tillmann và Goddard, 2008). Theo đó các nhà nghiên cứu đã kết hợp cơ cấu tổ chức với các qui tắc và nguồn lực của xã hội mà người đại diện phải ghi nhớ trong tâm trí của mình. Điều này đề cập đến tính hai mặt của cơ chế: để quản lý một tổ chức, người đại diện phải có năng lực và hành động tuân theo các qui tắc; mặt khác, năng lực được hình thành thông qua tiếp cận nguồn lực và hành động tuân thủ các qui tắc của chính họ. Nghiên cứu can thiệp đề nghị rằng, các nhà nghiên cứu tác động một cách tích cực vào sự thay đổi trong lĩnh vực quan sát. Ví dụ như trong nghiên cứu hành động cải tiến của Malmi và Granlund, 2009; Joenson và Lukka, 2006. Theo quan điểm này, để đảm bảo tính học thuật trong nghiên cứu, cần phải có sự tác động vào thực hành kế toán tại hiện trường nghiên cứu. Nhà nghiên cứu xoay chuyển giữa thông tin của những người đang được nghiên cứu với việc sử dụng những phạm trù khoa học đã được thiết lập trước để tổng hợp, suy luận rồi biến thành ngôn ngữ khoa học; cuối cùng xâm nhập thực tế tổ chức để kích thích sự thay đổi. Để tránh sa vào lĩnh vực của tư vấn kế toán, nhà nghiên cứu phải tuân theo các nguyên tắc nghiên cứu học thuật. Cách tiếp cận bản thể học, điều tra mối quan hệ giữa các hành vi, đang được áp dụng rộng rãi trong nghiên cứu kế toán 72 (Justesen và Mouritsen, 2011). Điều này không liên quan đến câu hỏi như thế nào và tại sao, nhưng nó tìm kiếm và phân tích những mối liên hệ bên trong hệ thống; nơi mà một hệ thống có thể bao gồm những yếu tố thuộc về con người và những yếu tố không thuộc về con người. Nếu một hệ thống có sự ràng buộc càng mạnh mẽ bao nhiêu thì càng thành công bấy nhiêu (whittle và Mueler, 2010). Chân lý khoa học nảy sinh trong những hệ thống mạnh bao quanh lý thuyết khoa học bằng việc điều tra những hành động của con người và cách thức họ tác động tới người khác. Liên quan tới nghiên cứu phê bình, nhiều tác phẩm của các triết gia và học giả đang được sử dụng trong những năm gần đây để hướng dẫn việc phân tích. Đáng chú ý là Habemas, Foucault, và Derrida đã khắc họa nét đặc trưng trong nghiên cứu kế toán. Ngoài những nghiên cứu lý thuyết ở trên, rất nhiều các nghiên cứu khác về kế toán quản trị đã được thực hiện như: sự đóng góp của giáo dục và đào tạo kế toán đối với thực hành kế toán quản trị trong doanh nghiệp, kế toán quản trị môi trường, kế toán trách nhiệm xã hội. 2.3. Mối quan hệ giữa thực hành, nghiên cứu và đào tạo kế toán quản trị Vào cuối những năm của thế kỷ 20, kế toán quản trị là đề tài của sự phê phán vì những thất bại của nó trong việc cung cấp thông tin thích hợp cho các nhà quản trị ra quyết định. Sự thất bại của kế toán quản trị không chỉ đối với thực hành kế toán mà còn đối với cả những vấn đề học thuật. Nghiên cứu học thuật về kế toán quản trị được cho là đã xa rời thực tế (Ken Moores, 1992). Để trả lời cho câu hỏi có hay không sự phân ly giữa lý thuyết và thực hành kế toán quản trị, năm 1992, Ken Moores đã sử dụng khung phân tích của Sterling (1973) để kiểm tra mối quan hệ giữa thực hành, nghiên cứu và đào tạo về kế toán quản trị. Kết quả cho thấy, tính thích hợp của thông tin kế toán cung cấp cho các nhà quản trị ngày càng thấp. Nguyên nhân của tình hình là do sự phân ly giữa nghiên cứu học thuật và thực hành kế toán ngày càng rộng. Theo tác giả, sự phân ly biểu hiện ở chỗ thiếu sự thông tin qua lại giữa giới học thuật và giới thực hành, thiếu sự hỗ trợ lẫn nhau trong việc xây dựng chương trình nghiên cứu, đào tạo và thực hành kế toán quản trị. Để thu hẹp khoảng trống này, Ken Moores đề nghị: thực hành kế toán phải đáp ứng được yêu cầu của quản lý, muốn vậy những người hành nghề kế toán phải làm việc cùng với giới học thuật. Có nghĩa là chương trình nghiên cứu và đào tạo kế toán phải nằm giữa kế toán hành nghề và nhà quản trị. Nhà quản trị cần (x) thì giới học thuật nghiên cứu (x) và dạy (x); người học khi ra trường phải thực hành (x). Mối quan hệ này có thể trình bày như sau: M(x) -> R(x) -> E(x) -> P(x) Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, do có nhiều hạn chế như: năng lực kế toán, năng lực quản lý, nguồn lực tài chính,, để đáp ứng yêu cầu thông tin cho quản lý, năm 2010 Ruvendra Nandan đề xuất cần phải nâng cao vai trò của kế toán hành nghề độc lập trong việc hỗ trợ, tư vấn cho các nhà quản trị. Cùng mục đích thu hẹp khoảng cách giữa nghiên cứu, giảng dạy và thực hành kế toán quản trị, xuất phát từ chỗ cho rằng có sự khác biệt trong khung lý thuyết giữa nghiên cứu học thuật và nghiên cứu thực hành, Khaldoon Al-Htaybat và Larissa von Alberti-Alhtaybat (2013) đề nghị khung lý thuyết trong nghiên cứu kế toán quản trị 73 nhằm kết nối giới học thuật và hành nghề kế toán. Đề nghị của tác giả dựa trên cơ sở xem xét các lý thuyết hiện hữu và điều tra thực tế. Theo đó, về mặt tổng quan tài liệu, khung lý thuyết gồm các khía cạnh: môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, đạo đức, năng lực và ba chức năng chính của kế toán quản trị là: ra quyết định, hoạch định và kiểm soát. Về kết quả điều tra thực tế, khung lý thuyết có những đặc trưng sau: dự toán, đo lường sự thực hiện, năng lực, chiến lược, văn hóa, giáo dục và công nghệ. 3. KHUNG LÝ THUYẾT TRONG NGHIÊN CỨU KẾ TOÁN QUẢN TRỊ Dù nghiên cứu với mục đích gì và chủ thể nghiên cứu là ai, đều phải xây dựng một khung lý thuyết liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Khung lý thuyết bao gồm tất cả những lý thuyết khoa học được sử dụng trong việc nghiên cứu. Khung lý thuyết là căn cứ để xây dựng khung khái niệm và khung phân tích. Khung phân tích là hình thức sơ đồ hóa tất cả các quan hệ giữa các biến số theo bản chất và trình tự của chúng. Từ đó, ta có thể mô tả trực quan cách thức mà ta phải phân tích vấn đề nghiên cứu. Khung phân tích giúp nhà nghiên cứu hình dung được bản chất của dữ liệu, nguồn dự liệu, tiến trình thu thập dữ liệu và phương thức xử lý dữ liệu. (Trần Tiến Khai, 2012). Như đã trình bày ở trên, nghiên cứu kế toán quản trị ở nước ta thời gian qua mới xoay quanh vấn đề nghiên cứu, hệ thống các lý luận về kế toán quản trị, phân tích thực trạng áp dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp, xác định nguyên nhân và đề xuất các giải pháp hoàn thiện hoặc thiết kế mô hình kế toán quản trị cho một doanh nghiệp, một nhóm doanh nghiệp hoặc một ngành sản xuất kinh doanh cụ thể. Quan sát các nghiên cứu trong nước về kế toán quản trị được công bố trên các tạp chí khoa học trong nước; các khóa luận tốt nghiệp đại học, luận văn cao học và ngay cả các luận án tiến sĩ viết về kế toán quản trị, cho thấy các nghiên cứu chưa xây dựng hoặc xây dựng chưa đầy đủ khung lý thuyết cho việc nghiên cứu. Do đó, khung phân tích trong nghiên cứu chưa bao gồm đầy đủ các biến có liên quan; kết quả nghiên cứu thực tế cũng chưa được đưa vào giảng dạy và ứng dụng. Vì vậy, để hội nhập khu vực và quốc tế về nghiên cứu, đào tạo và thực hành kế toán quản trị, chúng tôi đề xuất khung lý thuyết nghiên cứu kế toán quản trị như sau: 74 Khung lý thuyết nghiên cứu kế toán quản trị Sơ đồ trên mô tả các yếu tố chính của khung lý thuyết trong nghiên cứu kế toán quản trị mà các nhà nghiên cứu và thực hành kế toán phải xem xét khi nghiên cứu kế toán quản trị. Mối quan hệ giữa các nhân tố có thể được khám phá thông qua cách tiếp cận của nhà nghiên cứu. Ví dụ, tiếp cận theo lý thuyết tình thế sẽ nhận diện các nhân tố tình thế và xác định mối quan hệ nhân - quả giữa các nhân tố với kế toán quản trị. Tiếp cận lý thuyết phê phán sẽ nhận diện các yếu tố của năng lực, văn hóa và giáo dục, 4. KẾT LUẬN Xây dựng khung lý thuyết là vấn đề hết sức quan trọng trong nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên cứu kế toán quản trị nói riêng. Kế thừa những thành tựu nghiên cứu trên thế giới, chúng tôi đề xuất khung lý thuyết nghiên cứu kế toán quản trị. Đây chỉ là khuôn khổ lý thuyết chung nhất. Tùy thuộc vào vấn đề nghiên cứu và cách tiếp cận cụ thể để nhận diện và phát triển khung phân tích cho phù hợp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ken Moores (1992), Strategic features of management accounting systems: an examination of the relationship between practice, research, and education. School of Business Discussion Papers. Paper 30. Giáo dục và đào tạo kế toán quản trị Chiến lược Rủi ro/Sự không chắc chắn Công nghệ Môi trường tự nhiên Môi trường xã hội Đạo đức Ra quyết định Hoạch định Kiểm soát Năng lực – Văn hóa (yếu tố nền tảng) Nguồn: Phỏng theo Kaldoon Al-Htaybat và Larissa von Alberti-Alhtaybat (2013) 75 2. Ruvendra Nandan (2010), Management accounting needs of SMEs and the role of Professional Accountants: A Renewed Research Agenda, JAMAR, Vol. 8, No 1.2010, pp 65-78. 3. Khaldoon Al-Htaybat & Larissa von Alberti-Alhtaybat (2013), Management Accounting Theory Revisited: Seeking to Increase Research Relevence, International Journal of Business and Management; Vol. 8, No. 18, pp 12-24. 4. Taiwo Olalere (2011), Methodology in Accounting Research: A critique of taxonomy, 5. Blaikie, N. (2000), Designing social research: the logic of anticipation. Cambridge, UK: Polity Press. 6. Ahrens, T., & C. S. (2006), Theorizing Practic in Management Accounting Research. In Chapman, C., Hopwood, A., & Shields, M., Handbook of Management Accounting Research, Vol. 1, pp101-112. 3243(06)01003-0. 7. Ahrens, T., & Becker, A. (2008), The future of interpretive accounting research-A polyphonic debate, Critical Perspectives on Accounting, 19, 840-866. 8. Baldvinsdottir, G., Mitchell, F., & Norreklit, H. (2010). Issues in the relationship between theory and practice in Management accounting, Management Accounting Research, 21(2), 79-82. 9. Coad, A., & Herbert, I. (2009), Back to the future: New potential for structuration theory in management accounting research?, Management Accounting Research, 20, 177-192. 10. Malmi, T., & Granlund, M. (2009), In search of Management Accounting Theory”, European Accounting Review, 18(3), 597-620. 11. Malmi, T. (2010), Reflections on paradigms inaction in accounting research, Management Accounting Research, 21, 121-123, 2010.02.003. 12. Trần Tiến Khai (2012), Phương pháp nghiên cứu kinh tế: Kiến thức cơ bản, Nxb Lao động. * Ngày nhận bài: 15/3/2015. Biên tập xong: 24/4/2015. Duyêt đăng: 04/5/2015.
File đính kèm:
- khung_ly_thuyet_trong_nghien_cuu_ke_toan_quan_tri.pdf