Khoa học công nghệ điện - Số 22 - Năm 2018
Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Chủ tịch Hội
Điện lực miền Nam Hồ Quang Ái đánh giá mảng
hoạt động khoa học công nghệ được Hội Điện
lực miền Nam thực hiện khá tốt, nhiều đề tài
nghiên cứu, ứng dụng vào thực tế đã góp phần
tích cực mang lại hiệu quả cao cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Bên cạnh
đó, phát huy kết quả của hoạt động hỗ trợ nghề
nghiệp, Hội Điện lực miền Nam cần khẳng định
mục tiêu trong thời gian đến cuối năm 2018,
mỗi Chi hội thành viên sẽ đăng bạ thành công ít
nhất 1 kỹ sư chuyên nghiệp ASeAN 2018, đồng
thời các Chi hội cũng cần tăng cường hoạt động
truyền thông các hoạt động của Hội đến các
hội viên cũng như quảng bá mạnh mẽ hơn ra
cộng đồng.
Thống nhất với phương án nhân sự do Ban
Thương vụ trình trước Hội nghị: Ông Hồ Quang
Ái (nghỉ hưu từ ngày 01/8/2018) sẽ thôi giữ
chức Chủ tịch Hội Điện lực miền Nam và ông
Nguyễn Tấn Tài (chuyển công tác khác) sẽ thôi
giữ chức Chánh văn phòng Hội Điện lực miền
Các đại biểu dự Hội nghị Ban Chấp hành Hội Điện lực miền Nam lần thứ 4 - Nhiệm kỳ II (2015-2020)
Nam; Ban Chấp hành Hội điện lực miền Nam đã
bầu ông Nguyễn Phước Đức - Phó Tổng Giám đốc
eVN SPC làm Chủ tịch Hội Điện lực miền Nam và
ông Nguyễn Tấn Tài làm Trưởng Ban kiểm tra của
Hội Điện lực miền Nam kể từ ngày 10/7/2018.
Phát biểu nhận nhiệm vụ, ông Nguyễn Phước
Đức - Tân Chủ tịch Hội Điện lực miền Nam cho
biết sẽ cần phải nỗ lực nhiều cùng với Ban Chấp
hành để hoàn thành nhiệm vụ của Hội Điện lực
miền Nam trong thời gian tới. Cảm ơn những
cống hiến của Nguyên chủ tịch Hội Điện lực miền
Nam trong nhiệm kỳ II, ông Nguyễn Phước Đức
cũng mong rằng ông Hồ Quang Ái sẽ tiếp tục có
nhiều đóng góp quan trọng để Hội Điện lực miền
Nam tiếp tục duy trì được hoạt động ổn định và
thành công hơn nữa.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khoa học công nghệ điện - Số 22 - Năm 2018
ịa nhiệt, cung cấp 1.7 MW (tương đương 10.1% nhu cầu hiện hữu) và dầu khí sẽ cung cấp phần 89.9% còn lại. Năng lượng dư được thu hoạch từ tuabin gió được bán cho điện lực, giúp cho vùng có thêm thu nhập hằng năm là 0.7 triệu đô la. Hình 3: Tỉ lệ thành phần của các hệ thống năng lượng tái tạo Grid: Lưới điện quốc gia; Wind: Gió; GHP (Geothermal Heat and Power): địa nhiệt; Petrolium: dầu khí; Biomass: năng lượng sinh học; PV( Photovoltaics): năng lượng mặt trời; Electricity: Điện; Heat: làm ấm. Bảng 1 thể hiện chi tiết các thành phần của chi phí cho năng lượng trong vùng. Từ bảng trên, ta thấy được chi phí xây dựng và lắp đặt (C&I) là 2.8 triệu đô-la cho hệ thống năng lượng tái tạo. Chi phí cho vận hành và bảo dưỡng (O&M) cho các công trình này là 0.16 triệu đô la cho mỗi năm, chi cho nhiên liệu đã giảm xuống tới ngưỡng 1.2 triệu đô la 1 năm, chi cho mua điện từ lưới điện quốc gia đã giảm 71% xuống còn 2.0 triệu đô la một năm. Tổng cộng hằng năm, người dân trong vùng tiết kiệm được 5.3 triệu đô la, và số tiền này được cho rằng sẽ chảy vào nền kinh tế qua sức mua trong vùng. Ngoài ra, tỉ lệ tiêu dùng và sức mua trong vùng Kuzumaki được giả định là ngang với trung bình trong quận Iwate. Kết quả Ảnh hưởng của việc chi cho năng lượng tái tạo lên nền kinh tế và việc làm Hình 4 cho thấy những ngành công nghiệp và dịch vụ được hưởng lợi từ những chi phí cho công trình năng lượng tái tạo. Lưu ý rằng chi phí cho vân hành và bảo dưỡng (O&M) là hằng năm. Ngành xây dựng và lắp đặt chiếm một phần lớn những lợi ích trên, cụ thể là ngành xây dựng tuabin thu hoạch năng lượng gió. Tác động kinh tế tích cực còn có thể thấy trong ngành dịch vụ kinh doanh. Tác động này bắt nguồn từ nhu cầu cho tư vấn kinh tế và bảo dưỡng của các công trình năng lượng tái tạo. Những xu hướng tích cực cũng có thể thấy trong ngành ngân hàng và bảo hiểm, nguyên nhân là lãi từ việc cho vay vốn thi công. Trong bài viết này, giả định là một nửa chi phí cho thi công và lắp đặt hệ thống năng lượng tái tạo được cung cấp bởi nguồn vay từ những hình thức tín dụng. Kết quả là 2.0 triệu đô la hiệu quả kinh tế được bắt nguồn từ chi phí 2.8 triệu đô la cho xây dựng và lắp đặt. Tương tự, 0.3 triệu đô-la hiệu quả kinh tế được chuyển hóa từ 0.2 triệu Bảng 1: Kinh phí cho hệ thống năng lượng trong vùng Kuzumaki; BảN TiN HộI ĐIỆN LỰC MIềN NAM - THáNg 4 / 2018 29 kinh phí cho bảo dưỡng và vận hành. Vì quận Iwate không có ngành công nghiệp sản xuất, gia công thiết bị cho năng lượng gió, toàn bộ tuabin được nhập từ ngoài quận, những ảnh hưởng kinh tế trong quận từ thi công và lắp đặt năng lượng gió đã được ước tính thấp hơn. Hình 6 thể hiện ảnh hưởng của việc đổi mới sang năng lượng tái tạo lên việc làm cho quận Iwate. 2.1 triệu đô-la được chảy vào nền kinh tế của quận vì nhu cầu cho xây dựng cơ sở hạ tầng cho năng lượng tái tạo. 0.3 triệu đô-la lợi nhuận được sinh ra từ nhu cầu vận hành và bảo dưỡng. Tiết kiệm được 3.5 triệu đô-la cho việc mua điện và 0.4 triệu đô la cho dầu khí. Sức mua, chi tiêu của người dân trong quận được tăng thêm 4.3 triệu đô-la. Hình 4: Ảnh hưởng lên kinh tế của năng lượng tái tạo trong các ngành công nghiệp và dịch vụ trong quận Iwate Construction and installation: Xây dựng và lắp đặt; Business services: Dịch vụ kinh doanh; Transportation: Vận tải; Real estate: Bất động sản; Trade: Thương mại; Personal serives: dịch vụ cá nhân; Hình 5 thể hiện ảnh hưởng lên việc làm từ các chi phí cho năng lượng tái tạo. Những ngành được khảo sát đều có tín hiệu tích cực giống như kinh tế chung của ngành. Có khá ít những ảnh hưởng của lên việc làm trong ngành kinh doanh được giải thích bởi vốn dĩ ngành này có hệ số việc làm thấp, khoảng 1.4 (việc làm/triệu đô la), vốn dĩ thấp hơn trung bình của quận Iwate (8.7 việc làm/ triệu đô la). Hệ số việc làm của các ngành kinh doanh là 17.1 việc làm/triệu đô la, ngân hàng và bảo hiểm là 11 việc làm/triệu đô la, giao thông vận tải là 6.9 việc làm/triệu đô la. Tác động vào việc làm trong ngành kinh doanh được ước tính là lớn hơn ngành ngân hàng và giao thông vận tải Hình 5: Ảnh hưởng lên việc làm của năng lượng tái tạo trong các ngành công nghiệp và dịch vụ trong quận Iwate So sánh ảnh hưởng kinh tế và việc làm giữa năng lượng tái tạo và năng lượng không tái tạo Hình 6: Tác động vào nền kinh tế và việc làm của việc thay đổi cơ cấu chi tiêu cho năng lượng Changes in the economic effect in Iwate prefecture derived by the changes in the expense in Kuzumaki town: Những thay đổi kinh tế của quận Iwate phát sinh từ những thay đổi trong cơ cấu chi tiêu của vùng Kuzumaki Changes in the employment effect in Iwate prefecture derived by the changes in the expense in Kuzumaki town: Những thay đổi trong việc làm của quận Iwate phát sinh từ những thay đổi trong cơ cấu chi tiêu của vùng Kuzumaki C&I Cost: Chi phí cho xây dựng và lắp đặt; Annual Cost: Chi phí hằng năm; Additonal consumption: Sức mua được tăng thêm; Renewable Energy: Năng lượng tái tạo; Petroleum, Gas: Dầu Khí; Grid electricity: Lưới điện. Việc có nguồn đầu tư cho xây dựng, lắp đặt,và bảo dưỡng đã tạo ra 18 việc làm. 33.8 việc làm được tạo ra nhờ vào 4.3 triệu đô la chi tiêu thêm. Tuy nhiên, vì nhu cầu mua điện qua lưới điện quốc gia giảm, 11.4 công việc đã mất đi. Như vậy, tổng cộng đã có 2.7 triệu đô-la chảy vào nền kinh tế của quận, cùng với 35.1 công việc được tạo thêm vì sử dụng năng lượng tái sinh. So sánh những thay đổi về kinh tế và việc làm trong từng ngành phát sinh từ việc tái cơ cấu chi phí cho năng lượng Hình 7 cho thấy sự thay đổi trong ảnh hưởng kinh tế lên từng nhóm ngành. Phần tăng thêm của sức mua có ảnh hưởng đáng kể lên nhiều 30 BảN TiN HộI ĐIỆN LỰC MIềN NAM - THáNg 4 / 2018 lãnh vực, trong đó cần kể đến 1.1 triệu đô-la chảy vào ngành bất động sản. Khu vực kinh tế bị ảnh hưởng xấu nhiều nhất vẫn là dầu khí và điện, với 2.7 triệu đô-la mất đi. Ảnh hưởng tích cực do sức mua tăng và tiêu cực do giảm nhu cầu xăng dầu xảy ra cùng lúc cho ngành thương mại. Kết Luận Việc lắp đặt hệ thống năng lượng tái tạo trong vùng Kuzu- maki tạo nên nhu cầu trong ngành xây dựng và ngành bảo dưỡng, giảm lệ thuộc vào việc mua điện trên lưới điện quốc gia, tiết kiệm chi phí năng lượng và gia tăng sức mua của người dân. Cụ thể là chi phí cho năng lượng giảm 4.3 triệu đô la trong năm đầu tiên. 2.7 triệu đô-la được tạo ra chảy vào nền kinh tế cục bộ, và tạo thêm 35.1 việc làm. Những tác động kinh tế tiêu cực lên ngành dầu khí và điện lực của quận Iwate cũng sẽ ảnh hưởng lên ngành này ở các quận xung quanh. Quận Fukushima chịu ảnh hưởng xấu lớn nhất trong các quận khu vực Tohoku do quận này có nhiều nhà máy năng lượng hạt nhân. Tuy nhiên, nếu xem xét thêm chi phí vận hành và truyền tải lưới điện, các quận Akita và Miyagi cũng có nhà máy điện cũng sẽ chịu thiệt hại về kinh tế, do các nhà máy trong quận này đã cũ và hiệu suất thấp. thảo Luận Dựa trên báo cáo của eWeA (european Wind energy Association, Hội Năng Lượng Gió Châu Âu, năm 2003) năng lượng gió tạo ra 30,000 việc làm ở Châu âu. Ủy ban Châu Âu trong một bài báo cáo kết luận rằng nếu trong năm 2020, 12% nhu cầu điện của thế giới được cung cấp bởi năng lượng gió thì 1.8 triệu việc làm sẽ được Hình 7: So sánh ảnh hưởng kinh tế lên từng nhóm ngành, phát sinh từ chi phí của hệ thống năng lượng Agriculture: Nông nghiệp; Mining: Khai khonág; Food and beverages: Ăn uống; Construction and installation: Xây dựng và lắp đặt; Gas and electrictiy: Dầu khí và điện; Trade: Thương mại; Banking and Insurance: Ngân hàng và bảo hiểm; Communication: Truyền Thông; Government services: Dịch vụ công; Medical and social services: Dịch vụ y tế. Những khác biệt về kinh tế và việc làm được tác động bởi năng lượng tái tạo trong sáu quận thuộc khu vực Tohoku Bảng 2 cụ thể hóa những thay đổi kinh tế của sáu quận trực thuộc khu vực Tohoku phát sinh từ việc thay đổi cơ cấu kinh phí cho năng lượng tái tạo của quận Iwate. Một hệ thống phân tích nhập lượng xuất lượng cho cả khu vực Tohoku, được phân ra thành 52 phân khúc kinh tế, để đánh giá hiệu ứng lan tỏa từ quận Iwate.Bảng 2-(a) cho thấy quận Aomori và Miyagi được hưởng tác động tích cực lên kinh tế, góp phần tạo thêm việc làm. Quận Aomori được hưởng lợi từ nhu cầu cho các nguyên liệu kính, và quận Miyagi thừa hưởng được sức chi tiêu tăng của người dân trong quận Iwate cho các dịch vụ ăn uống. Quận Iwate vẫn nhập lưới điện từ các vùng lân cận, chủ yếu từ vùng Fukushima. Tuy nhiên, vì hệ số việc làm của ngành điện trong quận Iwate vốn dĩ đã thấp, ảnh hưởng kinh tế tiêu cực lên ngành này là nhỏ. Table 2: Bảng 2 so sánh ảnh hưởng kinh tế lên các quận trong khu vực Tohoku được phát sinh từ năng lượng tái tạo trong quận Iwate. BảN TiN HộI ĐIỆN LỰC MIềN NAM - THáNg 4 / 2018 31 tạo ra. Việc lắp đặt những cơ sở năng lượng tái tạo như năng lượng sinh khối và mặt trời sẽ nên rất nhiều việc làm. Những ảnh hưởng kinh tế từ nhu cầu cần được đáp ứng của những cơ sở năng lượng tái sinh sẽ khác nhau đối với từng vùng, tùy thuộc vào khả năng gia công và sản xuất của vùng đó. Quận Iwate có nền kinh tế chủ yếu là công nghiệp, với tỷ lệ tự túc năng lượng trong ngành sản xuất là 23.2%, vốn dĩ là khá thấp nếu so với những phân khúc công nghiệp khác. Với việc lắp đặt cơ sở năng lượng tái tạo, nhu cầu cho xây dựng và bảo trì tăng cao. Nhu cầu mua điện từ lưới điện giảm, tuy nhiên, phần chi phí được tiết kiệm sẽ chảy vào nền kinh tế khu vực, tăng sức mua cho người dân trong quận Iwate. Nếu khả năng sản xuất của quận Iwate có khả năng đáp ứng nhu cầu điện gió, nền kinh tế của quận sẽ được phát triển hơn nữa. Có 155 tuabin gió ở Nhật Bản. Đến thời điểm cuối năm 2010, công suất năng lượng gió được lắp đặt vào khoảng 3000MW, gấp 38 lần so với năm 1999. Hầu hết những tuabin gió ở Nhật Bản đều được nhập khẩu. Có thể kết luận rằng, nếu có khả năng tự sản xuất, gia công tuabin gió, nền kinh tế Nhật Bản sẽ nhận được những lợi ích khổng lồ và tạo ra rất nhiều việc làm. Quận Iwate có rất nhiều nguồn nguyên liệu cho năng lượng sinh khối. Nếu chi phí xây dựng cho cơ sở sinh khối giảm và việc lắp đặt được hoàn thành, lợi ích kinh tế cho quận Iwate là chắc chắn. Ngoài ra, sự hồi sinh của ngành lâm nghiệp sẽ giúp cho quận Iwate khôi phục rừng. Nguồn điện được sinh ra sẽ giảm thiểu gánh nặng cho hệ thống lưới điện cũng như giảm lượng khí thải CO2 tài Liệu tham Khảo Bentzen, J.; Smith, V.; Dilling-Hansen, M., (1996), Regional income effects and renewable fuels. energy Policy 25 (2), 185–191. Cosmi, C.; Macchiato, M; Mangiamele, L.; Marmo, G.; Pietrapertosa, F., (2003), environmental and economic effects of renewable energy sources use on a local case study. energy Policy 31, 443–457. The european Biomass association, (1997), Green paper of the european Commission. eC, (1997), energy for the future: Renewable sources of energy. White paper for a community strategy and action plan. The european Photovoltaic Industry association, (2001), Solar generation. The european Wind energy association, (2003), Wind force 12. Nakata, T.; Kubo, K.; Lamont, a., (2003), Design for renewable energy systems with application to rural area in Japan. energy Policy, article in press. Northwest economic associates, (2003), assessing the economic Development Impacts of Wind Power. Vancouver, Wa. Ziegelmann, a.; Mohr, M.; Unger, H., (2000), Net employment effects of an extension of renewable- energy systems in the Federal Republic of Germany. applied energy 65, 329–338. Để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề cho cán bộ công nhân viên và thực hiện theo chủ đề năm 2018 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam là “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” Chi hội Điện lực lực Sóc Trăng đã phối hợp cùng Công ty Điện lực Sóc Trăng tổ chức Chương trình huấn luyện tay nghề cho công nhân và cán bộ kỹ thuật của Công ty Điện lực Sóc Trăng CHI HỘI ĐIỆN LỰC SÓC TRĂNG TỔ CHỨC HUẤN LUYỆN TAY NGHỀ CHO CÔNG NHÂN VÀ CÁN BỘ KỸ THUẬT kS. ngUYỄn ngỌC HiỀn Chi hội Điện lực Sóc Trăng 32 BảN TiN HộI ĐIỆN LỰC MIềN NAM - THáNg 4 / 2018 Ông Nguyễn Ngọc Hiền- Thư ký Chi hội Điện lực- TP Kỹ thuật PC Sóc Trăng trong một buổi huấn luyện công nhân. Chương trình đào tạo được chia thành 04 đợt với tổng số hơn 400 công nhân; cán bộ kỹ thuật; cán bộ/kỹ sư an toàn; Đội trưởng/Đội phó các Đội; Trưởng/phó phòng KHVT; Trưởng/phó phòng Kinh doanh các Điện lực trong đó có 200 Hội viên của Chi hội Điện lực Sóc Trăng tham gia. Trong quá trình đào tạo, các thành viên tham dự đã được cập nhật nhiều kiến thức, kinh nghiệm thực tế, các quy trình, quy định mới nhất liên quan đến công tác kỹ thuật, kinh doanh, vận hànhđặc biệt Chi hội Điện lực Sóc Trăng đã phối hợp cùng Công ty Điện lực Sóc Trăng xây dựng 22 đoạn video clip về công tác thi công, hướng dẫn sử dụng các thiết bị Qua các buổi đào tạo đã góp phần nâng cao trình độ chuyên môn của các công nhân, cán bộ kỹ thuật góp phần hoàn thành các chỉ tiêu được giao. Hình ảnh của một buổi Hội thảo do Chi hội Điện lực chủ trì Trao đổi, thảo luận tại Hội thảo chuyện ngụ ngôn CHÚ LỪA VÀ CÁI GIẾNG C huyện kể rằng, vào một ngày nọ, con lừa của ông chủ trang trại bị sảy chân, rơi xuống giếng. Chú lừa tội nghiệp kêu la thảm thảm thiết nhiều giờ liền trong vô vọng. Bởi người chủ trang trại vẫn đang loay hoay không biết làm cách nào để cứu chú lừa lên. Cuối cùng, người chủ quyết định: Con lừa đã già còn cái giếng thì quá nguy hiểm nên cần được san lấp lại. Vì thế sẽ chẳng ích lợi gì khi cứu chú lừa ấy lên khỏi giếng cả. Lập tức, người chủ liền nhờ vả một vài người hàng xóm giúp mình xúc đất, đổ vào giếng. Còn chú lừa, sau một hồi kêu la thảm thiết cũng hiểu ra vấn đề, nên nó im lặng ngay tức khắc. Lừa ta đã quyết định, mỗi khi một xẻng đất đổ xuống giếng, lừa lắc mình cho đất rơi khỏi người và bước chân lên trên. Cứ liên tục như vậy, chẳng mấy chốc, khi cát đầy tới miệng giếng, lừa ta đã đứng nhảy lóc cóc chạy ra ngoài. Điều này đã làm cho ông chủ trang trại cảm thấy vô cùng sửng sốt. Bài học Cuộc sống vốn rất phức tạp và nhiều thử thách, chông gai. Do đó, nếu bạn đầu hàng trước số phận thì sẽ mãi mãi không thể thoát ra được “cái giếng” của cuộc đời. Ngược lại, bằng tất cả ý chí và phấn đấu của mình, bạn sẽ giúp bản thân thoát khỏi những vấn đề khó khăn đó và đưa mình đến với thành công, đến với chiến thắng và hạnh phúc. Vì thế, đừng bao giờ chịu đầu hàng trước số phận vì nghĩ rằng: Ai đó sẽ cứu bạn?! Bởi vì, không ai cứu được bạn ngoài chính bạn đâu! mn sưu tầm BảN TiN HộI ĐIỆN LỰC MIềN NAM - THáNg 4 / 2018 33
File đính kèm:
- khoa_hoc_cong_nghe_dien_so_22_nam_2018.pdf