Hiện trạng và giải pháp phát triển nuôi trồng thủy sản tỉnh Nam Định theo hướng bền vững
Nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Nam Định trong những năm gần đây được khẳng định là nghề
sản xuất thế mạnh mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập
cho người dân; sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng mạnh hằng năm góp phần làm cho nền kinh tế
toàn tỉnh ngày càng phát triển. Tuy nhiên, hiện nay nuôi trồng thuỷ sản tỉnh Nam Định đang phải đối
mặt với một số vấn đề thách thức và khó khăn như: vấn đề quản lý quy hoạch đất sản xuất nông
nghiệp và nuôi trồng thủy sản; nguồn giống thủy sản (giống tôm) còn thiếu và chưa được kiểm soát
chất lượng, vấn đề ô nhiễm môi trường trong nuôi trồng thủy sản Những tồn tại này ảnh hưởng đến
năng suất, chất lượng, hiệu quả và sự phát triển bền vững của nghề. Trong thời gian tới để nghề nuôi
trồng thủy sản của tỉnh Nam Định phát triển ổn định cần phải có những giải pháp giải quyết triệt để
những tồn tại nêu trên.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng và giải pháp phát triển nuôi trồng thủy sản tỉnh Nam Định theo hướng bền vững
n khai. Về phương thức, thời gian và hạn mức cho thuê và mức thu tiền sử dụng đất mặt nước hiện nay còn nhiều bất cập. 3.2.2. Vấn đề nguồn giống và chất lượng giống thủy sản Đối với sản xuất ngao giống: Thách thức đối với ngành sản xuất ngao giống tại địa phương hiện nay là hầu hết các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, sản xuất theo kinh nghiệm nên sản lượng không ổn định, chất lượng không đồng đều. Cơ sở hạ tầng sản xuất giống thủy sản do hộ dân tự bỏ vốn đầu tư xây dựng, chưa được sự quan tâm hỗ trợ của Nhà nước nên chưa đảm bảo tiêu chuẩn; dễ bị thiệt hại do ảnh hưởng bởi thời tiết và thiên tai. Ngoài ra, một số giống thủy sản chưa sản xuất được trong nước, phải nhập từ Trung Quốc Bùi Thị Vân Anh – Hiện trạng và giải pháp phát triển nuôi trồng thủy sản 25 như: giống cá song, cá vược, diêu hồng... thời gian qua do ảnh hưởng của đại dịch Covid - 19 đã bị gián đoạn, không nhập khẩu được, khiến cho mùa vụ nuôi thả của người dân bị chậm lại; việc sản xuất giống nhuyễn thể trong những tháng đầu năm gặp nhiều khó khăn trong việc nhập và lựa chọn đàn ngao, hàu bố mẹ đảm bảo chất lượng khiến cho chất lượng con giống sản xuất ra không đảm bảo để cung cấp cho người nuôi. Đối với đối tượng nuôi chủ lực có giá trị kinh tế cao, nhu cầu lớn thứ hai là tôm thẻ chân trắng, tỉnh Nam Định chưa chủ động sản xuất giống tại chỗ... Nguồn giống tôm hiện nay chủ yếu lấy từ các tỉnh phía Nam, chất lượng con giống khó kiểm soát, chi phí và tỷ lệ hao hụt trong quá trình vận chuyển cao. Để khắc phục những khó khăn, hạn chế trong khâu sản xuất giống thủy sản, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Nam Định và các ngành hữu quan đang tiếp tục triển khai các chương trình hỗ trợ tạo điều kiện cho các cơ sở giống nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, tiếp nhận công nghệ mới để sản xuất đáp ứng nhu cầu nuôi thả, đặc biệt là các giống nuôi chủ lực. 3.2.3. Vấn đề xả thải trong nuôi trồng thủy sản và nguy cơ gây ô nhiễm môi trường Hiện nay, các khu nuôi tôm công nghiệp, nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh ở tỉnh Nam Định phát triển mạnh, đi liền với năng suất tăng, giá trị kinh tế lớn, nhưng luôn tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nếu các doanh nghiệp và cơ sở nuôi không thực hiện đúng quy trình kiểm soát, xử lý chất thải. Rất nhiều cơ sở nuôi tôm trong tỉnh vì mục tiêu lợi nhuận đều có xu hướng tận dụng tối đa diện tích để nuôi, không dành đủ diện tích làm ao lắng để xử lý nước nuôi tôm trước khi xả ra môi trường. Thực tế cho thấy, dù nuôi tôm công nghiệp rất phát triển ở Nam Định nhưng hiện nay các khu nuôi tôm tập trung chưa có hệ thống cấp thoát nước riêng biệt, đây cũng là một trong những yếu tố gây áp lực đối với môi trường. Theo nghiên cứu của Lê Thị Thanh Thủy và cộng sự (2017) “Hiện trạng chất lượng môi trường nước nuôi tôm vùng ven biển Nam Định và Quảng Ninh” cho thấy môi trường nước nuôi tôm tại hai tỉnh Quảng Ninh và Nam Định chủ yếu bị ô nhiễm hữu cơ, như: P, K, DO, NH4, TSS và Coliform. Đặc biệt trong nước thải sau nuôi, hàm lượng các chỉ tiêu trên đều cao. Theo kết quả nghiên cứu, hầu hết các vùng nuôi tôm không có quy hoạch hệ thống cấp, thoát nước riêng; nước cấp cho vùng nuôi trồng thủy sản đều dùng chung với hệ thống thủy lợi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Mặt khác nước thải sau nuôi không được xử lý, thải chung vào hệ thống kênh mương trong vùng, làm cho chất lượng nước vùng nuôi tôm bị ô nhiễm, chủ yếu là ô nhiễm hữu cơ. Bên cạnh đó, sự liên kết giữa các hộ nuôi trong khu vực chưa chặt chẽ, đặc biệt là ý thức trách nhiệm trong xử lý dịch bệnh còn hạn chế dẫn đến tình trạng lây lan dịch bệnh đối với tôm nuôi [2]. Mặc dù, nghề nuôi tôm thâm canh mang lại nhiều lợi nhuận, góp phần giải quyết công ăn việc làm của các địa phương ven biển; song trên thực tế, việc thiếu quy hoạch và người dân không tuân thủ các quy định về mùa vụ, mật độ nuôi, phòng trị bệnh, xử lý nước thải hoặc vì mục tiêu lợi nhuận đều có xu hướng tận dụng tối đa diện tích để nuôi mà không dành diện tích làm ao lắng xử lý nước thải trước khi xả thải ra môi trường. Tăng sản lượng, mà không quan tâm đến xử lý chất thải... đã làm môi trường nuôi trồng thủy sản bị ô nhiễm nghiêm trọng. Việc người dân lạm dụng các loại thuốc hóa học làm sạch nước, chất kháng sinh để xử lý bệnh cho tôm không chỉ gây tác động xấu đến môi trường sản xuất mà còn làm ảnh hưởng đến môi trường sống xung quanh. Ngoài ra, tình trạng các hộ nuôi và cơ sở nuôi trồng thủy sản chưa có ý thức Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(32) – Tháng 3/2021 26 trong việc cải tạo ao nuôi, quy trình xử lý nước thải, bùn thải trong nuôi tôm công nghiệp. Thực tế, bùn thải trong quá trình nuôi trồng thủy sản (nuôi tôm công nghiệp, nuôi tôm thâm canh, nuôi cá tra công nghiệp...) chứa các nguồn thức ăn dư thừa thối rữa bị phân hủy, các loại hóa chất và thuốc kháng sinh, các loại khoáng chất Diatomit, Dolomit, lưu huỳnh đọng, các chất độc hại có trong đất phèn vừa gây nguy cơ lây lan dịch bệnh cho các hộ khác lấy phải nguồn nước ô nhiễm vào ao nuôi, vừa có thể gây ô nhiễm trực tiếp cho nguồn nước ngầm, nước mặt và gián tiếp ảnh hưởng đến môi trường sống cho người dân khu vực xung quanh. 3.2.4. Vấn đề đầu ra cho nuôi trồng thủy sản Thực tế hiện nay cho thấy, hệ thống hậu cần dịch vụ của Nam Định còn nhỏ lẻ và chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu thu mua, bảo quản, chế biến nên làm giảm giá trị sản phẩm thủy sản. Chế biến, xuất khẩu thủy sản còn hạn chế, chủ yếu là tiêu thụ nội địa, chưa tạo ra chuỗi sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Do ảnh hưởng của đại dịch Covid -19, giá các loại thủy sản tươi tiêu thụ ở thị trường trong nước bị sụt giảm mạnh, gây nhiều khó khăn cho người dân. Đối với xuất khẩu thủy sản, theo số liệu thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Nam Định, năm 2019, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản đã xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc khoảng 3.000 tấn cá bống bớp, 40 nghìn tấn thủy sản khai thác, 200 tấn tép moi; xuất khẩu sang châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc khoảng 6.000 tấn ngao. Tuy nhiên, từ đầu năm 2020 đến nay, hầu hết sản phẩm thủy sản của các doanh nghiệp xuất khẩu phải lưu kho. Tại thị trường trong nước, chính sách giãn cách xã hội khiến các doanh nghiệp chế biến thủy sản vừa gặp khó về nguồn nguyên liệu dẫn đến bị đội giá sản xuất, vừa bị giảm sản lượng hàng hóa tiêu thụ do nhu cầu tiêu dùng nội địa giảm. Bên cạnh đó, chính sách biên mậu của Trung Quốc không nhập mặt hàng thủy sản theo đường tiểu ngạch, chỉ nhập chính ngạch cùng với việc EC đặt thẻ vàng khiến các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản sang châu Âu tốn thêm nhiều lệ phí, thời gian do hàng hóa bị giữ lại kiểm tra. Để hỗ trợ các doanh nghiệp thủy sản vượt khó, các ngành, các địa phương trong tỉnh đã tập trung tạo điều kiện để các doanh nghiệp đẩy mạnh tiêu dùng nội địa. Đáng kể nhất là việc các ngành chức năng đã phối hợp hỗ trợ các doanh nghiệp thủy sản thông qua Hiệp hội nông sản sạch tỉnh thành lập Trung tâm Giới thiệu sản phẩm thủy hải sản tươi sống tại thành phố Nam Định để tăng cường quảng bá và tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nội địa. Tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp thủy sản duy trì xuất khẩu sản phẩm sang thị trường Trung Quốc. Trong đó, khuyến khích doanh nghiệp thủy sản nâng cao chất lượng sản phẩm, cấp mã số vùng trồng, kiểm dịch và dần chuyển đổi hình thức xuất khẩu từ tiểu ngạch sang xuất khẩu chính ngạch, tránh các rủi ro về kinh tế. 3.3. Một số giải pháp để phát triển nuôi trồng thủy sản ở Nam Định theo hướng bền vững Trên cơ sở các kết quả phân tích về thực trạng nuôi trồng thủy sản của tỉnh Nam Định, bài viết đề xuất một số giải pháp phát triển nuôi trổng thủy sản theo hướng bền vững, đảm bảo sự hài hòa giữa phát triển kinh tế, xã hội và môi trường. - Thứ nhất, hoàn thiện chính sách pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, từng bước đưa các cơ sở nuôi trồng thủy sản tuân thủ các quy định pháp luật về điều kiện sản xuất, bảo đảm chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, phù hợp với tiêu chuẩn của thị trường quốc tế. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống kiểm soát chất lượng các vật tư trong nuôi trồng thủy sản (giống, thức ăn); đồng thời, đẩy Bùi Thị Vân Anh – Hiện trạng và giải pháp phát triển nuôi trồng thủy sản 27 nhanh quá trình xã hội hóa việc kiểm tra chất lượng và khảo nghiệm các vật tư dùng trong nuôi trồng thủy sản. - Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân về bảo vệ môi trường và các phương thức bảo vệ môi trường, bởi chính họ là những người đã, đang và sẽ tác động trực tiếp đến môi trường, gây ảnh hưởng đến chính hoạt động nuôi trồng của họ. Cần gắn trách nhiệm của hộ nuôi trồng thuỷ sản, người dân, chủ trang trại, doanh nghiệp vào quản lý môi trường. - Thứ ba, tăng cường quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường của chính quyền các cấp; các cơ quan có liên quan trong việc thực thi Luật bảo vệ môi trường, đối với các cơ sở nuôi trồng và chế biến thủy hải sản. Đặc biệt, nâng cao năng lực thẩm định, báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án đầu tư, cũng như tuân thủ nghiêm ngặt quy trình lập và thẩm định đánh giá tác động môi trường theo quy định của pháp luật. Tăng cường sự quản lý Nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hoá, vệ sinh an toàn thực phẩm, xây dựng và bảo vệ bản quyền, bảo vệ thương hiệu hàng hoá. Bên cạnh đó, công tác quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản cần dựa trên cơ sở phân vùng sinh thái, phát triển hạ tầng kỹ thuật cấp thoát nước và xử lý chất thải đối với ngành nuôi trồng thủy sản công nghiệp, thâm canh... để đáp ứng yêu cầu về nguồn lực, cơ sở hạ tầng góp phần vệ sinh môi trường, ngăn ngừa bệnh dịch và các quy chuẩn môi trường đã quy định. Đồng thời, các chủ đầu tư canh tác nuôi trồng và chế biến thủy sản phải tập trung đầu tư và vận hành các hệ thống thu gom tập trung, phân loại hợp lý chất thải rắn công nghiệp và sinh hoạt; quản lý lưu giữ và chuyển giao chất thải rắn nguy hại theo đúng quy định, cũng như phải có hệ thống xử lý nước thải tập trung, hệ thống xử lý khí thải đạt tiêu chuẩn về môi trường. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp, cần kiên quyết xử lý triệt để những hành vi vi phạm các quy định của Luật bảo vệ môi trường. - Thứ tư, chú trọng nâng cao trình độ kỹ thuật cho người nuôi trồng thuỷ sản, đồng thời thường xuyên mở các lớp đào tạo ngắn hạn, phục vụ cho nhu cầu học tập của dân cư, giúp họ tiếp thu những tiến bộ khoa học và công nghệ đang thay đổi từng ngày để có thể ứng dụng vào hoạt động nuôi trồng thuỷ sản của mình. - Thứ năm, đầu tư cơ sở hạ tầng, tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ nuôi trồng thủy sản. Tăng cường đầu tư cho khoa học kỹ thuật, nghiên cứu phát triển sản xuất giống nhuyễn thể đảm bảo chất lượng, từng bước chủ động đáp ứng nhu cầu về giống nuôi tại địa phương cho người dân, tạo thế chủ động trong sản xuất. - Thứ sáu, đẩy mạnh xúc tiến thương mại đối với các mặt hàng thủy sản ở địa phương đến được các thị trường lớn. Hỗ trợ, kết nối để các hiệp hội và doanh nghiệp làm chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt động chung về xúc tiến thương mại, phát triển thị trường tiêu thụ thủy sản đối với các sản phẩm thủy sản thế mạnh. Xây dựng mạng lưới phân phối, trực tiếp ký kết hợp đồng với các tổ chức cung ứng thực phẩm, các trung tâm phân phối, siêu thị của các thị trường lớn. Thúc đẩy hình thành kênh phân phối hàng thủy sản nội địa từ người sản xuất, doanh nghiệp đến các chợ, các siêu thị thông qua hệ thống các chợ đầu mối, các trung tâm nghề cá lớn. Bên cạnh đó, củng cố khung pháp lý cho các doanh nghiệp xuất khẩu, chế biến thủy sản, đặc biệt là có cơ chế khuyến khích hình thành các cơ sở chế biến thủy sản đáp ứng tiêu chuẩn quốc gia, khu vực và toàn cầu là một yêu cầu đặt ra, trong đó trước tiên là về quỹ đất, về quy hoạch các cụm công nghiệp tập trung, về cơ chế vốn Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(32) – Tháng 3/2021 28 vay, tiếp cận thiết bị, công nghệ mới... Cùng với đó, nhu cầu về một trung tâm giao dịch nông, lâm, thủy sản đầu mối của tỉnh là rất cần thiết. Giải quyết đầu ra cho sản phẩm thủy sản mang yếu tố quyết định đến sự thành bại của mục tiêu đặt ra. Tuy nhiên, để giải bài toán khó này, đòi hỏi cần phải có các giải pháp đồng bộ tại tất cả các khâu trong chuỗi từ khai thác, thu mua, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm. 4. Kết luận Trong những năm qua, nuôi trồng thủy sản tỉnh Nam Định đã đạt được những thành tựu và có những bước phát triển nhất định trên nhiều lĩnh vực. Nuôi trồng thủy sản của huyện đã đạt được nhiều kết quả tốt với sản lượng thủy sản tăng mạnh. Hiện trạng nghề nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Nam Định còn mang tính tự phát, thiếu tính bền vững với giá trị sản lượng nuôi trồng tăng nhanh nhưng chưa quản lý tốt quy hoạch diện tích nuôi trồng thủy sản, sản xuất con giống thủy sản chưa theo kịp yêu cầu phát triển, việc xả thải trong nuôi trồng có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, vấn đề tiêu thụ sản phẩm cũng gặp khó khăn trong bối cảnh dịch bệnh Covid - 19. Trong thời gian tới để phát triển nghề nuôi trồng thủy sản tại tỉnh Nam Định theo hướng bền vững cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để tạo điều kiện cho nuôi trồng thủy sản trở thành một ngành kinh tế mạnh của tỉnh, góp phần nâng cao thu nhập, bảo vệ sức khỏe cho người lao động tại các doanh nghiệp nuôi trồng và chế biến thủy sản và bảo vệ sức khỏe người dân. Bài viết là một phần kết quả nghiên cứu của đề tài cấp Bộ: Thái độ của người dân vùng ven biển Bắc Bộ đối với khai thác tài nguyên thiên nhiên ven biển hiện nay; Văn phòng Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam là đơn vị chủ trì; TS. Bùi Thị Vân Anh làm chủ nhiệm. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Nam Định (2020), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ sản xuất thủy sản năm 2020; triển khai nhiệm vụ sản xuất năm 2021. 2. Lê Thị Thanh Thủy, Nguyễn Hồng Sơn, Đỗ Phương Chi, Trần Quốc Việt, Bùi Thị Lan Hương, Đỗ Thị Thu Hà (2017) Hiện trạng chất lượng môi trường nước nuôi tôm vùng ven biển Nam Định và Quảng Ninh, Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam, số 2 (75) 2017. 3. Bùi Đắc Thuyết, Trần Văn Dũng (2013), Hiện trạng nghề nuôi ngao ở một số tỉnh ven biển miền Bắc và Bắc Trung Bộ, Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Phát triển, tập 11 số 7 năm 2013. 4. https://nongnghiep.vn/thuy-san-nam-dinh-phat-huy-loi-the-d273086.html 5. qua-2540435 6. 7. Thông tin tác giả: Bùi Thị Vân Anh – Viện Địa lí nhân văn Địa chỉ: Số 1 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội Email: vananh1509@gmail.com - Điện thoại: 0983351115 Nhật ký tòa soạn Ngày nhận bài: 4/01/2020 Biên tập: 3/2021
File đính kèm:
- hien_trang_va_giai_phap_phat_trien_nuoi_trong_thuy_san_tinh.pdf