Giáo trình Tua bin thủy lực
MỤC TIÊU MÔN HỌC
1. Kiến thức:
- Trình bày được các khái niệm về tua bin, dòng chảy trong tua bin, các đại
lượng đặc trưng của chúng.
2. Kỹ năng:
- Vẽ được sơ đồ cấu tạo và trình bày được nguyên lý làm việc của các loại tua
bin, các bộ điều chỉnh, các thiết bị dầu áp lực, các động cơ tiếp lực vv.
3. Năng tự chủ và trách nhiệm:
- Nghiêm túc, chủ động trong học tập. Ứng dụng các kiến thức đã học vào thực
tế.
NỘI DUNG MÔN HỌC
Chương 1: Khái niệm chung về tua bin thủy lực.
Mục tiêu:
Học xong chương này người học có khả năng:
- Trình bày được nguyên lý sử dụng thủy năng vào tua bin thủy lực;
- Phân biệt được các loại tua bin, các thông số cơ bản của tua bin thủy lực.
1. Công suất dòng nước và nguyên lý sử dụng thủy năng
1.1. Công suất dòng nước
Muốn xác định năng lượng tiềm tàng của dòng chảy trong sông thiên nhiên
(hình 1-1) từ mặt cắt (1-1) đến (2-2) ta xét năng lượng mà khối nước W di
chuyển trong đoạn ấy đã tiêu hao đi, nghĩa là tìm hiệu số năng lượng giữa
hai mặt cắt đó: E = E1-E25
Dựa vào phương trình Bec-nui chúng ta biết
được năng lượng tiềm tàng chứa trong thể tích nước W(m3) khi chảy qua
mặt cắt (1-1) trong thời gian t(s) sẽ là:
Trong đó:
+ Z1 - cao trình mặt nước tại mặt cắt 1-1
+ p1 - áp suất trên mặt nước tại mặt cắt 1-1
+ γ - trọng lượng thể tích của nước; γ = 9,81.103 N/m3
+ V1 - vận tốc dòng chảy tại mặt cắt 1-1
+ α1 - hệ số xét đến sự phân bố lưu tốc tại mặt cắt 1-1
+ g - gia tốc trọng trường.
Giả thiết rằng trong đoạn sông đang xét không có sông nhánh đổ vào, nghĩa là coi
lượng nước W chảy qua mặt cắt (1-1) và (2-2) là không đổi. Khi đó lượng nước
W chảy qua mặt cắt (2-2) sẽ có một năng lượng tiềm tàng là:
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Tua bin thủy lực
những chỗ đó lưu tốc rất lớn áp lực hạ thấp dần đến khí thực khe hở. 6.2. Nguyên nhân Ở một vùng nào đó vì áp lực hạ thấp trong dòng chảy xuất hiện những bọt khí và hình thành dòng nước sôi có tác dụng xâm thực bề mặt kim loại đó là hiện tượng khí thực. Dòng nước chảy sôi sục là do dòng nước hoá thành hơi, nó liên quan tới nhiệt độ và áp lực khí quyển tại nơi ấy. Khi áp lực là 1 atmôtphe (tương ứng với 10,33m cột nước) nước hoá hơi ở 1000C nhưng nếu áp suất giảm xuống 1,26m cột nước, nước hoá hơi ở 500C. Như vậy dưới một nhiệt độ nhất định nào đó áp lực làm cho nước bắt đầu hoá thành hơi gọi là áp suất hoá hơi. Quan hệ giữa nhiệt độ và áp suất hoá hơi cho ở bảng (5.1). Nhiệ t độ nước sông thiên nhiên thường từ 00 200C. Dòng chảy qua phần dẫn tuabin luôn thay đổi vận tốc và áp suất. Tại một số vùng nhất định áp suất sẽ hạ rất thấp đến giá trị áp suất hoá hơi – nước sôi tạo thành các bọt hơi nước và không khí có tác dụng xâm thực bề mặt kim loại mà chủ yếu là tác dụng cơ học thứ đến là tác dụng hoá học và tác dụng điện hoá. a. Tác dụng cơ học. Trong bộ phận nước qua của tuabin tồn tại áp lực chân không cục bộ. Đó là điều kiện cơ bản hình thành khí thực. Khi dòng nước đi qua BXCT, lưu tốc rất lớn nếu mặt ngoài cánh nhám, không nhẵn hoặc hình dạng cánh tuabin không hợp với hình đường chảy đều có thể làm cho dòng chảy bị phá hoại. Dựa vào phương trình Bécnuly, lưu tốc tăng lên thì áp lực hạ xuống. Nếu áp lực hạ xuống tới áp lực hoá hơi thì dòng nước bắt đầu sôi. Chỗ cục bộ nào đó trong tuabin do áp lực thấp sinh ra bọt hơi có chứa hơi nước và không khí. Khi bọt hơi xê dịch tới vùng áp suất cao, hơi nước lập tức ngưng tụ lại thành nước, hình thành vùng chân không trong bọt khí. Dưới áp lực cao nước ở xung quanh ép vào trung tâm bọt khí với tốc độ rất mạnh tạo nên áp lực nước va rất lớn (hình 5.1) làm cho bọt hơi bị 55 co ép mãnh liệt. Sau đó cũng tại tâm các bọt khí này nước nước bị nén đột ngột lại có xu thế muốn dãn nở, sau đó lại tái diễn quá trình ép co giãn nở. b)Tác dụng hoá học. Khi bọt khí bị nén ở vùng áp lực cao sẽ có toả nhiệt. Người ta đã làm thí nghiệm và đo được nhiệt độ trong các bọt khí khi bị nén đạt tới 2300C. Tác dụng hoá học làm ăn mòn kim loại là do phản ứng ôxy hoá khi không khí (chứa ôxy) bị tách ra khỏi nước. Nhiệt độ nước càng lớn thì quá trình ôxy hoá càng mạnh. Nhưng nguyên nhân chính làm cho kim loại bị ăn mòn chủ yếu vẫn là do tác dụng cơ học thể hiện ở sự chấn động diễn ra trên bề mặt phần qua nước của tuabin: Bởi vì ngay cả đối với các vật liệu có tính ổn định hoá học tốt như thủy tinh v.v... vẫn bị phá hoại bởi tác dụng khí thực. c)Tác dụng điện hoá: Khi bọt khí bị nén trong điều kiện áp suất và nhiệt độ cao làm cho giữa các bộ phận nước qua của tuabin có sự chênh lệch về nhiệt độ (do khí thực) hình thành các pin nhiệt điện. Dưới tác dụng của hiện tượng điện phân xẩy ra trên bề mặt kim loại và hiện tượng phóng điện trong các bọt khí sẽ gây nên sự ăn mòn kim loại. 6.3. Tác hại Hiện tượng khí thực trong tuabin thường dẫn đến các tác hại sau đây: - Làm giảm hiệu suất và công suất tuabin. Sự giảm công suất tuabin không những chỉ do sự giảm hiệu suất mà còn do cả sự giảm khả năng thoát nước của tuabin. - Làm hư hỏng các phần nước qua của tuabin. Nếu hư hỏng với mức độ nghiêm trọng sẽ buộc phải dùng máy để sửa chữa và làm giảm lượng điện phát ra của TTĐ. - Máy rung và có tiếng ồn, hiện tượng rung động có thể lan sang cả phần nền móng của nhà máy TTĐ. 7. Các biện pháp phòng chống khí thực: 56 7.1. Biện pháp thiết kế 7.2. Biện pháp chế tạo Một trong các biện pháp bảo vệ các bộ phận của phần nước qua của tuabin khỏi bị phá hoại do tác dụng khí thực là chọn hợp lí các nguyên vật liệu chế tạo. Chẳng hạn, đẻ chế tạo phần nước qua của tuabin cột nước vừa và cao ( cánh BXCT, buồng BXCT tuabin dọc trục, BXCT tuabin tâm trục, cánh hướng nước) có thể sử dụng kim loại sau đây: thép ít cácbon có phủ ngoài một lớp hợp kim có tính ổn định về mặt khí thực; cánh BXCT làm bằng thép không gỉ. Thép hợp kim mang nhãn hiệu (kí hiệu của Liên Xô) 20 CЛ chứa các thành phần sau đây: C = 0,16 0,22%; Mn = 1 1,3%; Si = 0,6 0,8%;; hoặc dùng thép không gỉ mang nhãn hiệu 20 x 13H-ậ (C = 0,17 0,23%; Cr = 12 14%; Ni = 0,6 1%; Mn = 0,5 0,8%; Si = 0,7%). Hiện nay ở Nga các ngành chế tạo tuabin dùng rộng rãi thép không gỉ và thép chứa ít các bon: 0 x 12HÄ ( C 0,1%; Cr = 12 13,5%; Ni = 1 1,5%; Cu = 1 1,3%; Mn = 0,2 0,64%; Si = 0,4%). Thép không gỉ 20 x 13H- ậ có ưu điểm là tính chất hoá họ tốt, chống khí thực tốt nhưng khó hàn, còn thép hợp kim 0 x 12HД thì dễ hàn hơn nếu dùng để chế tạo BXCT kiểu hàn. 7.3. Biện pháp vận hành. - Duy trì tuabin làm việc ở chế độ không khí thực hoặc khí thực chỉ biểu hiện ở mức độ nhẹ. - Dẫn không khí vào phía dưới BXCT để làm giảm bớt khí thực xoang và giảm 57 áp lực mạnh động. Nếu không khí được dẫn đúng nơi và số lượng không khí vừa phải thì có thể làm giảm độ rung máy. Chương 4: Bộ điều chỉnh của tua bin thủy lực Mục tiêu: Học xong chương này người học có khả năng: - Giải thích được khái niệm, sự cần thiết, nguyên tắc điều chỉnh tua bin; - Trình bày được cấu tạo, nguyên lý làm việc của các loại máy điều tốc, các thiết bị dầu áp lực, các loại động cơ tiếp lực vv.. - Vẽ được sơ đồ cấu tạo, trình bày được nguyên lý làm việc của các loại máy điều tốc, các thiết bị dầu áp lực, các loại động cơ tiếp lực vv.. Nội dung: 1. Khái niệm chung 1.1. Hệ thống điều tốc tuabin Đối với lưới điện hiện đại, yêu cầu tần số điện không đổi (50Hz hoặc 60Hz), hay nói chính xác hơn, phạm vi biến đổi rất nhỏ, dưới 0,1%. Vì vậy nó đòi hỏi tốc độ quay của tuabin không được thay đổi. Song, khi phụ tải thay đổi, mômen (tương ứng với công suất phát của tuabin) và mômen cản (tương ứng với phụ tải) sẽ mất cân bằng, làm tốc độ quay của tuabin thay đổi. Muốn giữ tốc độ quay của tuabin không đổi, phải tạo nên cân bằng mới giữa mômen quay và mômen cản, tức là phải thay đổi công suất phát để nó tương ứng với trị số phụ tải mới. Để thay đổi công suất trên trục tuabin, người ta Hình 3-5: thường thay đổi lưu lượng qua tuabin bằng cách thay đổi độ mở cánh hướng dòng 58 của tuabin phản kích, hay thay đổi độ mở vòi phun của tuabin xung kích. Việc tăng giảm độ mở tuabin để thay đổi công suất hay dừng máy có thể thao tác bằng tay khi yêu cầu chính xác của tần số điện không cao và lực đóng mở tuabin không lớn, tức chỉ được dùng ở trạm thuỷ điện nhỏ. Để đảm bảo chất lượng điện đưa lên lưới (gồm điện áp và tần số) cũng như để đảm bảo yêu cầu dừng máy cấp tốc người ta phải tiến hành thao tác điều chỉnh tuabin một cách tự động, tức bộ phận điều chỉnh lưu lượng qua tuabin phải được thao tác bằng các động cơ secvô có lực thao tác lớn nhờ áp lực dầu từ các ống dẫn dầu áp lực. Dầu áp lực này được cung cấp từ thiết bị dầu áp lực và được điều khiển, khống chế từ thiết bị điều tốc. Ba bộ phận này hợp lại thành hệ thống điều chỉnh tự động tốc độ quay của tuabin 2. Sơ đồ cấu tạo chung Máy điều tốc gồm các cơ cấu phức tạp để thao tác điều chỉnh tự động tốc độ quay của tuabin cũng như các thao tác điều khiển, khống chế chế độ làm việc của tuabin. Các bộ phận chính của máy điều tốc gồm có : Hình 3-7: Cụm điều khiển thiết bị dầu áp lực Bộ phận cảm biến : Ghi nhận mức độ thay đổi tốc độ quay của tổ máy. Bộ phận khuếch đại : Làm nhiệm vụ nhận tín hiệu từ bộ phận cảm biến và khuếch đại tín hiệu. 59 Bộ phận phân phối dầu áp lực : Căn cứ vào tín hiệu từ bộ phận cảm biến để điều phối dầu áp lực tới động cơ secvô thao tác đóng mở bộ phận hướng dòng của tuabin. Đó là van trượt phân phối (còn gọi là van điều phối). Bộ phận chấp hành : Thực hiện mệnh lệnh đóng mở các cánh hướng tuabin. Đó là động cơ secvô gồm xilanh và pittông di chuyển bên trong xilanh theo hướng đóng hoặc mở các cánh hướng tuabin tuỳ thuộc vào hướng tác dụng của dầu áp lực, do van trượt phân phối điều phối. Bộ phận phản hồi : Nhằm đưa tín hiệu vị trí pittông động cơ secvô phản hồi trở lại để bộ phận cảm biến trở về vị trí cũ ứng với trạng thái cân bằng mới của tuabin. Ngoài ra, trong máy điều tốc còn có một số bộ phận điều khiển như cơ cấu biến tốc, cơ cấu giới hạn độ mở..dùng để thay đổi phụ tải tổ máy đảm nhận, hay khống chế độ mở tối đa của cánh hướng dòng.. Ở tuabin tâm trục hay tuabin chong chóng, máy điều tốc chỉ nhằm thay đổi độ mở bộ phận hướng dòng, gọi là máy điều tốc điều chỉnh đơn (có một bộ phận điều chỉnh). Ở tuabin cánh quay hay tuabin gáo có thêm thiết bị làm lệch tia nước thì phải dùng loại máy điều tốc điều chỉnh kép. Ở tuabin cánh quay, có hai bộ phận điều chỉnh, đó là bộ phận điều chỉnh độ mở cánh hướng dòng và bộ phận điều chỉnh góc đặt cánh BXCT của tuabin. Góc đặt cánh BXCT được thay đổi tuỳ thuộc vào cột nước và độ mở cánh hướng dòng, vì vậy, phải có cầu nối giữa hai bộ phận điều chỉnh này gọi là bộ phận liên hợp. Ở tuabin gáo cũng vậy, khi đóng chậm vòi phun bằng van kim để giảm áp lực nước va thì thiết bị làm lệch tia nước phải cắt ngay tia nước ra khỏi gáo rồi sau đó mới từ từ trở về vị trí cũ nên cũng cần phải có thêm bộ phận điều chỉnh thứ hai để thao tác thiết bị làm lệch tia nước. Ở máy điều tốc nhỏ, thiết bi dầu áp lực và tất cả các bộ phận của thiết bị điều tốc được bố trí trong cùng một tủ điều tốc, còn ở thuỷ điện lớn thì thiết bị dầu áp lực bố trí riêng, các bộ phận của thiết bị điều tốc (trừ động cơ secvô) được bố trí trong tủ điều tốc . Ở thuỷ điện lớn, động cơ secvô thường gồm hai chiếc, bố trí sát nắp tuabin hoặc nằm trên nắp tuabin. 60 Hình 3-9: Điều tốc tuabin gáo. 1- van kim; 2- cơ cấu lệch dòng Hình 3-10: Cơ cấu điều tốc tuabin Francis 3. Các sơ đồ nguyên lý điều chỉnh tốc độ tua bin 3.1 Sơ đồ nguyên lý máy điều tốc tác động trực tiếp Cấu tạo của MĐT loại này gồm có: con lắc ly tâm 4, tay đòn HZS và vn điều tiết lưu lượng 3, con lắc ly tâm 4 quay được nhờ động cơ điện 2 có liên hệ bằng cơ hay điện với trục turbin.Đầu bên trái của tay đòn HZS được nối với con lắc nhờ hộp trục H còn bên phải nó được nối với van điều tiết 3 tại điểm S. Khi cắt phụ tải, vì độ mở ao của các cánh hướng nước chưa thay đổi quay của quả lắc li tâm tăng lên, quả lắc văng ra xa, kéo hộp trục H lên trên, lú đó tay đòn HZS sẽ quay quanh điểm tựa Z theo chiều kim đồng hồ và đẩy van 3 xuống thấp để giảm bớt lưu lượng Q qua turbin, đảm bảo cho công suất turbin bằng công suất máy phát điện. 3.2 Sơ đồ nguyên lý máy điều tốc tác động gián tiếp 61 1.2.1 Máy điều tốc tác động gián tiếp có bộ phận phản hồi cứng; Trong sơ đồ này, ngoài bộ phận ĐCTL và van trượt kể trên còn có thêm bộ phận phản hồi kiểu đòn bẩy HZS, nó có tác dụng đưa kim trượt kịp thời trở về vị trí trung gian. Từ sơ đồ nguyên lí cho ở hình (8.4) ta thấy, lúc đầu tay đòn ở vị trí 1 và sua khi pittông ĐCTL chuển động về phía đóng bộ phận điều chỉnh thì hệ thống phản hồi cứng kiểu đòn sẽ đẩy điểm Z cùng điểm S (nối với kim van) lên trên (ở vị trí 2), kết quả là kim trượt sẽ trở về vị trí trung gian. Khác với sơ đồ không có phản hồi, ở đây khi quá trình điều chỉnh kết thúc, động cơ tiếp lực sẽ đứng im tại vị trí cân bằng mới và số vòng quay của turbin cũng sẽ ổn định ở vị trí mới tương ứng với vị trí mới của hộp trục. Hình vẽ cho truờng hợp giảm phụ tải của máy phát điện. 1.2.2 Máy điều tốc tác động gián tiếp không có bộ phận liên hệ ngược (phản hồi ngược). Theo sơ đồ này con lắc được liên hệ với van trượt 4 qua tay đòn 2. Chất lỏng có áp (dầu có áp) được dẫn vào van trượt 4, van này có tác dụng phân phối dầu vào các ngăn của ĐCTL. Lực tác động của động cơ tiếp lực phụ thuộc kích thước và áp suất của dầu áp lực. Cấu tạo ĐCTL gồm một pittông chuyển động trong một xilanh và pittông này được nối với vành điều chỉnh của bộ phận hướng dòng qua thanh kéo đẩy. Van trượt được thông với 2 ngăn của ĐCTL nhờ 2 ống dầu đặt ở 2 đầu của xilanh. Cấu tạo van trượt gồm có vỏ hình trụ và một chiếc kim trượt trong đó. Trên thành vỏ có 62 khoét 5 lỗ nhỏ (cửa sổ); cửa sổ ở giữa được thông với dầu có áp lấy từ thiết bị dầu có áp tới van trượt qua cửa này: 2 cửa làm việc (ở vị trí cân bằng thì 2 cửa sổ này ngăn tương ứng của ĐCTL qua 2 ống dẫn dầu, 2 cửa xả dầu trên và dưới cùng thông với thùng dầu xả. Như vậy, khi chuyển dời khỏi vị trí cân bằng thì dầu có áp sẽ từ cửa sổ giữa đi vào một ngăn nào đó của động cơ tiếp lực, còn dầu có áp trong ngăn khác của ĐCTL sẽ theo cửa sổ làm việc và lỗ xả trở về thùng dầu xả, hai phía của ĐCTL có độ chênh áp lực làm chuyển động bộ phận điều chỉnh turbin. 6. Thiết bị dầu có áp lực của máy điều tốc Như trên đã trình bày, để thao tác điều tốc cần có hệ thống dầu áp lực làm nguồn cung cấp năng lượng, lấy dầu áp lực làm môi chất truyền lực cho động cơ secvô. Thiết bị dầu áp lực có nhiệm vụ cung cấp dầu áp lực cho tủ điều chỉnh tốc độ tuabin và trong một số trường hợp, còn cung cấp dầu áp lực cho động cơ secvô đóng mở van đĩa, van cầu, van tháo không tải...(dùng chung một hệ thống dầu) Trong bình chứa dầu áp lực, dầu chỉ chiếm 30 ÷ 40% thể tích, phần còn lại là không khí nén. Nhờ tính đàn hồi của không khí nén mà sóng áp lực sinh ra khi thao tác điều chỉnh tuabin được giảm đi rất nhiều. Lượng dầu và áp lực dầu trong bình chứa đảm bảo cho các bộ phận thao tác điều chỉnh tuabin làm việc bình thường, nó là nguồn dự trữ năng lượng, nên giảm nhẹ được công suất bơm dầu (so với dùng bơm dầu trực tiếp vào bộ phận điều chỉnh tuabin). Hình 3-6 63 Trong quá trình làm việc, dầu và không khí nén trong bình chứa dầu bị hao hụt do rò rỉ, vì vậy phải đặt hai bơm dầu (một bơm làm việc, một bơm dự trữ) để bơm dầu từ thùng chứa dầu vào bình chứa dầu áp lực. Còn không khí nén thì được các máy nén khí trong hệ thống khí nén của nhà máy cung cấp theo định kỳ. Áp lực khí nén trong bình chứa dầu thường là 25 kG/cm2, 40 kG/cm2 hoặc 63 kG/cm2. Do thao tác điều khiển động cơ secvô, làm áp lực trong bình chứa dầu sụt xuống. Khi áp lực trong bình chứa dầu sụt xuống bớt 2 ÷ 3 kG/cm2 so với bình thường thì các máy bơm dầu hoạt động nhờ các rơle áp lực. Khi áp lực đạt bình thường thì rơle tự động điều khiển dừng máy bơm. Để bơm dầu không chịu áp lực dầu khi dừng máy, lắp đặt van một chiều trên đường ống. Để đảm bảo an toàn vận hành, cần lắp đặt van an toàn trên bình chứa dầu. Ngoài ra còn có phao chỉ mức dầu, áp kế...Dầu ở thiết bị dầu áp lực là dầu sạch, có độ nhớt 4-50E ở nhiệt độ 500C. Tài liệu tham khảo 1 Giáo trình tua bin thuỷ lực- NXB Xây dựng - năm 2008 2 Giáo trình tua bin nước- NXB Xây dựng - năm 1974 3 Điều chỉnh tua bin nước- NXB Xây dựng - năm 1972 64 4 Bảo dưỡng, sửa chữa tua bin nước - NXB Lao động -Xã hội - năm 2006 5 Vận hành tua bin nước- NXB Lao động -Xã hội - năm 2006 65
File đính kèm:
- giao_trinh_tua_bin_thuy_luc.pdf