Giáo trình mô đun Phòng, trị bệnh sản khoa thú y
1. Bại liệt trước khi đẻ
Bại liệt trước khi đẻ là một quá trình bệnh lý phức tạp xuất hiện ở cơ thể khi có thai
gây nên tình trạng bệnh nặng nên con vật chỉ nằm bẹp một chỗ. Bệnh này gặp nhiều nhất ở
bò và dê, ít gặp ở ngựa. Bệnh thường xuất hiện vào thời gian trước khi đẻ 1 tuần lễ hay trên
dưới 1 tháng.
1.1. Nguyên nhân
- Do chế độ nuôi dưỡng chăm sóc quản lý và sử dụng không đúng mục đích,
không đúng kỹ thuật.
- Khẩu phần thức ăn không đầy đủ và không phù hợp với yêu cầu phát triển theo
từng giai đoạn phát triển của thai.- Ở thời kỳ có thai giai đoạn cuối nhu cầu của cơ thể mẹ cần nhiều đạm, vitamin,
khoáng chất. Đặc biệt nhất là cần phải đầy đủ về Ca và P để phát triển bộ xương của
bào thai. Một số trường hợp cơ thể mẹ thiếu Ca, P.
- Trong khẩu phần thức ăn cung cấp cho gia súc thiếu Ca và P.
- Gia súc mẹ ít được thả, vận động.
- Do gia súc mẹ bị bệnh về đường ruột nên ảnh hưởng đến quá trình hấp thụ khoáng.
- Có thể kế phát từ bệnh thiểu năng tuyến phó giáp trạng làm thay đổi tỷ lệ bình
thường giữa Ca và P, làm cho P tăng và Ca giảm xuống
- Bại liệt trước khi đẻ là do sự chèn ép thần kinh rõ nhất là đám rối hông khum. Thỉnh
thoảng có thể do xuất hiện quá trình bệnh lý ở não tuỷ sau đó làm liệt hai chân sau.
1.2. Triệu chứng
- Bệnh này phát triển có thể từ từ hay xảy ra đột ngột.
- Trường hợp bệnh phát triển từ từ, lúc đầu con vật đi lại khó khăn (trong một
vài ngày) đứng không vững, sau đó mới nằm bẹp một chỗ còn trường hợp bệnh xảy ra
đột ngột thì con vật chỉ nằm mà không đứng dậy được.
- Thời gian đầu của bệnh ở bò, những phản xạ với xung quanh còn bình thường.
Tình trạng chung của con vật như thân nhiệt, hô hấp, tuần hoàn, tiêu hoá nói chung
vẫn bình thường, vật có thể tự trở mình từ bên này sang bên kia. Con vật ăn dở, thích
ăn những thứ mà bình thường không thể ăn được như đất, đá, vật gặm nền chuồng,
máng ăn
- Sau đó bệnh tiếp tục tiến triển sẽ ảnh hưởng đến tình trạng chung của cơ thể, kế
phát một số tình trạng bệnh lý khác như: Sa âm đạo, viêm phổi, viêm dạ dày, ruột
chướng bụng đầy hơi, đẻ khó do xoang chậu bị hẹp hay bị biến dạng.
1.3. Tiên lượng
Phụ thuộc vào thời gian phát sinh bệnh. Nếu bệnh xuất hiện vào thời gian trước khi đẻ
một vài tuần và cơ thể nói chung bình thường thì bệnh sẽ chóng khỏi. Nếu bệnh xuất hiện
trước khi đẻ một vài tháng thì tiên lượng xấu, gia súc có thể bị chết vì bị bại huyết và thối
loét.
1.4. Phòng và điều trị
Kịp thời bổ xung khoáng và những yếu tố dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể mẹ,
đồng thời đề phòng những tình trạng kế phát
* Hộ lý
- Thay đổi khẩu phần thức ăn, cho ăn những thức ăn dễ tiêu, nhiều đạm, khoáng và
vitamin, tăng cường các loại bột xương, các loại mắm, cua, ốc, cá
- Đề phòng hiện tượng bầm huyết, tụ huyết, phải luôn trở mình cho vật ngày 3- 4
lần, cho con vật nằm trên chuồng độn nhiều rơm rạ và cỏ khô. Với gia súc lớn nên dùng
dây chắc để đóng đóng, treo con vật đứng lên.
* Dùng thuốc
- Với gia súc quý cho uống dầu cá.
- Gluconat Canxi 20% 500- 1000ml cho gia súc lớn. Tiêm tĩnh mạch hoặc có thể tiêm
Chlorua Canci. Sử dụng các loại thuốc đặc hiệu để điều trị các bệnh kế phát nếu có.
2. Sẩy thai
Quá trình gia súc có thai bị gián đoạn, bị cắt quãng được gọi là hiện tượng sẩy
thai, bào thai bị đẩy ra khỏi tử cung của mẹ khi thai đã chết hay còn đang còn sống.
Thỉnh thoảng gặp hợp tử bị tiêu biến đi trong tử cung hay bào thai chết còn được giữ
lại trong tử cung.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình mô đun Phòng, trị bệnh sản khoa thú y
òng hiện tượng thai chết ngạt. Khoeo của chân sau ra ngoài trước là tư thế mà một hay cả hai chân sau không được duỗi thẳng nó bị gập lại phía trước làm cho thể tích phần đùi và mông của thai tăng lên, quá trình sổ thai bị trở ngại. Tư thế này chủ yếu xuất hiện ở trâu bò. Trường hợp một chân sau thẳng ra ngoài, một chân sau bị gập khúc và khoeo ra trước thì phía ngoài âm môn đã được bộc lộ ra một móng chân nằm ngửa. Kiểm tra qua âm đạo có thể phát hiện được đuôi, mông, trực tràng của bào thai và chỗ bị gập lại của chân sa. Vị trí của khoeo có thể ở phía dưới, phía trước xương ngồi hay đã nằm trong xoang chậu. * Biện pháp can thiệp Người phụ cố định đầu nạng sản khoa vào chỗ lõm giữa xương ngồi của hai gốc đuôi. Người chính dùng tay nắm chặt đầu móng hay ống chân của thai. Kết hợp nhịp nhàng, đồng thời người phụ đẩy mạnh thai lùi về phía trước, người nâng mạnh đầu móng chân làm cho chân sau được uốn gập lại và móng chân vượt qua phía trước về phía xương ngồi, sau đó kéo thẳng chân sau ra ngoài. Khi sửa chân thai phải đề phòng móng chân thai làm tổn thương niêm mạc đường sinh dục. Sau khi hai chân sau đã trở lại tư thế bình thường, dùng dụng cụ kết hợp với tay để kéo thai ra khỏi cơ thể mẹ. 8.4.2.7. Mông của thai ra trước Tư thế này có thể xuất hiện hai trạng thái khác nhau - Một chân sau của thai duỗi thẳng ra ngoài chân còn lại bị gập cong lại nằm ở dưới bụng thai. - Cả hai đều bị gập cong và nằm ở dưới bụng thai. Tư thế này chủ yếu thường gặp ở gia súc lớn nhất là đối với ngựa. Còn ở gia súc nhỏ ít xảy ra. Do chân thai gập lại nên mông và đùi thai tạo thành một khối to nên quá trình sổ thai gặp khó khăn. Trường hợp chỉ có một chân sau bị gập lại thì ở ngoài âm môn có thể được bộc lộ ra một móng chân sau nằm ngửa. Nếu cả hai chân sau bị gập lại thì không trông thấy gì ở ngoài âm hộ. Kiểm tra qua âm đạo phát hiện được đuôi của thai ở cửa vào xoang chậu (ngựa). Có trường hợp. Cả hai móng chân trước nằm ngửa, hướng về phía trước và cùng lọt vào xoang chậu. * Biện pháp can thiệp: Tuỳ thuộc vào thai to hay nhỏ, mức độ thai lọt vào xoang chậu nhiều hay ít tư thế 1 hay 2 chân không bình thường mà ta can thiệp. Trước hết ta phải sửa chân sau về tư thế bình thường gần giống như tư thế vai ra trước. Lúc đầu cố gắng giữ được phần dưới cổ khi người phụ đẩy thai về phía trước, người chính điều chỉnh chân sau về tư thế khớp kheo ra trước. Sau đó xử lý theo phương pháp tư thế khoeo ra trước và tiếp tục kéo chân sau thẳng ra ngoài. Trường hợp nếu thai nhỏ mà xoang chậu bình thường nhất là chỉ khi một chân sau không bình thường thì ta dùng dây sản khoa buộc chặt vào chân để kéo thai ra ngoài. 8.4.3. Hướng của thai không bình thường 8.4.3.1. Thai nghiêng và thai ngửa trong trường hợp đầu ra trước Thai nằm nghiêng thường gặp ở trâu bò, còn thai nằm ngửa thường gặp ở ngựa. Trường hợp thai nằm nghiêng thì đầu nằm cạnh hai chân. Thai ngửa thì đầu và cổ nằm dưới hai chân, cạnh hai chân hay ở giữa hai chân. Khi kiểm tra qua đường sinh dục, có thể phát hiện được móng chân trước nằm ngửa (nếu thai ngửa) hoặc nằm nghiêng và hai chân sau chồng lên nhau (nếu thai nghiêng). * Biện pháp can thiệp: Trước hết dùng các loại dịch nhờn thụt trực tiếp vào tử cung. Sau đó áp dụng các phương pháp sửa, xoay thai và kéo hơi nghiêng rồi mới lôi thai ra ngoài. ở ngựa, dê cừu do thai thường không to lắm nên có thể không cần phải xoay thai cũng có thể kéo thai ra được. Nếu khó khăn trước khi kéo thai cũng cần xoay thai như trâu, bò. Đối với lợn dùng tay nắm chặt lấy đầu thai và đẩy lùi vào phía trong và sửa thai. Sau đó dùng kẹp, móc sản khoa hay dùng tay để kéo thai ra ngoài. Trong khi thủ thuật sửa hay xoay thai nên cho gia súc mẹ đứng thai được thõng xuống dưới, không bị các bộ phận khác chèn ép làm trở ngại nên thao tác. Mặt khác cần phải gây tê ngoài màng cứng tuỷ sống. Dùng nạng sản khoa đẩy thải vào để cho đầu và cổ thẳng dễ dàng khi sửa thai, dùng ngón tay nắm vào hố mắt và xoay đầu lại và kéo vào phí trong xoang chậu. Trong một số trường hợp khi thai còn sống dùng tay ấn mạnh vào mắt thai có thể tự xoay thẳng đầu và chân. Nếu thai đã chết ta dùng móc cố định đưa vào xương hàm dưới và kéo thai ra ngoài. Dùng sức kéo một chân trước phía trên xuống dưới và sang phía đối diện với phía thai nằm (ví dụ: Khi thai nằm nghiêng về bên phải thì kéo về bên trái). Không nên kéo cùng lúc cả hai chân trước như vậy khi thai đã lọt qua cửa xoang chậu, từ trạng thái nằm nghiêng có thể trở thành nằm sấp hay hơi nghiêng. Người phụ kéo đầu thai người khác kéo chân trước lên phía trên, người chính nắm lấy đầu gối chân trước phía dưới đẩy mạnh lên trên để xoay thẳng ngực của thai. Trường hợp thai nằm ngửa khi xoay thai phải giữ chặt thai và xoay lật gia súc mẹ. Trước hết dùng dụng cụ đẩy thai lùi vào phía trong tử cung tay giữ chặt lấy cổ chân khi đã làm cho chân trước gập lại thai được cố định tương đối chắc nên khi lật gia súc mẹ từ bên này sang bên kia thai có thể chuyển thành nằm sấp hay hơi nghiêng cần phải căn cứ vào vị trí của đầu thai để quyết định con mẹ nằm ở phía nào và lật sang phía nào trường hợp đầu thai bị kẹp vào giữa hai chân trước thì lật gia súc mẹ vào phía nào cũng được. Nếu đầu thai nằm ở bên hải chân trước thì đạt mẹ nằm ở bên phải sau đó lật qua bên trái và ngược lại. Trường hợp nếu sửa thai một lần không kết quả thì có thể tiến hành lần thứ hai. Sau khi xoay thai và điều chỉnh đầu thai ở trạng thái bình thường áp dụng phương pháp kéo thai ra ngoài. 8.4.3.2. Thai nghiêng và thai ngửa trong trường hợp đuôi ra trước Trường hợp này có khi thấy ở âm môn lồi ra một hay hai móng chân úp sấp. Kiểm tra qua đường sinh dục có thể căn cứ vào khớp khoeo để xác định chân sau. * Biện pháp can thiệp Khi đuôi thai ra ngoài trước, do đầu thai ở tư thế bình thường, khi thai không quá to cho nên có thể kéo thai ra ngoài được mà không cần phải xoay thai. Nếu thai nằm nghiêng. Do đường kính từ trên xuống dưới xoang chậu tương đối rộng cho nên khi xoay thai chỉ cần kẹp chân sau ở phía trên mà thôi. Trước khi mông thai lọt vào cửa xoang chậu. Đồng thời người phụ kéo thai lọt vào cửa xoang chậu. Đồng thời người phụ kéo thai còn người chính giữ chặt lấy đùi và chân sau của thai hay nâng khớp đùi chân sau nằm ở phía dưới. Nếu thai nằm ngửa, gia súc mẹ không đứng lên được thì có thể can thiệp xoay thai như trường hợp đầu ra trước. 8.4.4. Chiều của thai không bình thường Trong quá trình sinh để bình thường chiều của thai phù hợp với chiều dọc của mẹ, riêng ở trâu bò do thể tích dạ cỏ quá to nên chiều dọc của thai và mẹ được tạo thành một góc nhọn nhưng vẫn bình thường. Chiều của thai không bình xuất hiện khi chiều dọc thai và chiều dọc mẹ nằm chếch nhau hay tạo thành góc vuông. Nếu hướng thai không bình thường thì rất khó điều chỉnh chỉ có thể sửa hay xoay thai khi thai còn sống. Trước khi tiến hành thủ thuật phải làm cho tử cung mềm ra. Xoang tử cung rộng và trơn, vì vậy bắt buộc phải gây tê màng cứng tuỷ sống thụt trực tiếp dịch nhờn vào tử cung. Trường hợp thai chết phải dùng các dụng cụ để cưa và cắt thai lấy ra từng bộ phận sau đó mới sửa thân thai và kéo ra ngoài. 8.4.4.1. Thai ngang Chiều của thai ngang thường gặp ở gia súc lớn. Thai nằm ngang trong tử cung, bốn chân thai dâm thẳng vào đường sinh dục. Kiểm tra qua âm đạo, tử cung có thể phát hiện được bốn chân và bụng thai. Thai ngang thường nằm nghiêng, đầu thai có thể ở bên phải hoặc trái đầu thai thường cong về phía sau cũng có thể quay về cửa xoang chậu. * Biện pháp can thiệp Trước hết bằng mọi phương pháp để sửa và xoay thai có thể làm cho thai trở thành tư thế nằm nghiêng và mông ra trước. Trường hợp này có thể xoay thai nằm sấp. Mặt khác có thể làm cho thai trở thành tư thế nằm nghiêng và đầu ra trước. Biện pháp này chỉ áp dụng khi đầu và hai chân trước của thai đã nằm sát cửa vào xoang chậu. 8.4.4.2. Thai vuông thước thợ Chiều thai này thường hay gặp ở ngựa. Thai vuông thước thợ xuất hiện khi màng thai bị rách quá sớm, cơ thể mẹ rặn đẻ quá sớm. Vì vậy thai chưa kịp đổi chiều hướng thích hợp nhất là khi tử cung bị thõng xuống tận đáy xoang bụng. Kiểm tra qua đường sinh dục có thể phát hiện được bờm cổ hay sống lưng của thai thẳng đứng. * Biện pháp can thiệp: Tiến hành sửa thai để đầu ra trước thai nằm ngửa khi thấy đầu và hai chân trước ở gần cửa vào xoang chậu. Trường hợp khi mông của thai nằm gần cửa vào xoang thì tiến hành sửa thai để mông ra trước. Bằng những biện pháp trên nếu không có kết quả thì có thể áp dụng biện pháp cưa và cắt thai ra từng bộ phận nhỏ đã kéo ra ngoài hay mổ bụng mẹ lấy thai ra. Chương 9 BỆNH Ở TUYẾN VÚ 9.1. Bệnh viêm vú thể thanh dịch 9.1.1. Nguyên nhân - Do các loài vi khuẩn: Liên tụ cầu trùng, E.coli xâm nhập vào tuyến vú , qua da bị xây sát hay qua lỗ đầu vú. - Do kế phát từ một số bệnh: Sát nhau, viêm tử cung, hóa mủ, bại liệt sau khi đẻ, sốt sữa. Vi khuẩn theo máu về tuyến vú gây bệnh. 9.1.2. Triệu chứng Tuyến vú bị xung huyết, dịch viêm bị tiết ra nhiều. Có thể xuất hiện từ một là vú có khi cả bầu vú, ít khi xảy ra toàn bộ bầu vú một lúc. Nước viêm thải ra thấm vào các nang sữa. Quá trình lưu thông mạch máu vì mạch lâm ba bị trở ngại. Lá vú bị viêm sưng to có khi cả đầu vú cũng sưng. Sờ thấy nóng. Giai đoạn đầu không đau sau ấn mạnh tay con vật có cảm giác đau, lúc đầu sữa biến đổi không rõ. Về sau sữa loãng và có cả tế bào biểu bì mô và bạch cầu. Lượng sữa giảm đi rõ rệt. Con vật ăn uống giảm, thân nhiệt tăng, ủ rũ, mệt nhọc. Điều trị sau một tuần sẽ khỏi, có thể chuyển sang thể viêm khác nặng hơn. 9.1.3. Điều trị Phải phát hiện bệnh sớm va điều trị kịp thời, xác định chính xác nguyên nhân gây bệnh và thể viêm. Cách ly xa gia súc ốm, chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, tăng số lần vắt sữa trong ngày để giảm áp lực trong đầu vú. Xoa bóp nhẹ nhàng đầu vú mỗi ngày 2-3 lần, mỗi lần từ 10-15 phút, giảm thức ăn tinh và thức ăn nhiều nước. - Dùng thuốc: Norsulphazol 6-8g uống 2 lần trong ngày và uống từ 4-5 ngày. - Đề phòng chuyển sang thể viêm nặng hơn ta dùng Norsulphazol Natri 10% 100- 150ml tiêm tĩnh mạch. - Xoa bầu vú bằng Ichthyol, dầu long não - Dùng thuốc kháng sinh bơm qua lỗ tiết sữa của lá vú bị viêm. Trước khi bơm vắt cạn sữa sót trong kim và đầu vú. Kim thông phù hợp với lỗ của đầu vú. - Có triệu chứng toàn thân- tiêm bắp bằng kháng sinh. - Trợ sức, trợ lực. - Dùng Novocain 0,25% 200 ml tiêm tĩnh mạch. 9.2. Viêm vú thể fibrin 9.2.1. Nguyên nhân - Kế phát từ thể viêm thanh dịch hay viêm cata. - Kế phát từ viêm phúc mạc, do chấn thương, viêm tử cung tích mủ. 9.2.2. Triệu trứng Thường xuất hiện ở một lá vú và ít khi thấy ở cả 2 lá vú hay 4 lá vú. Những tế bào tuyến của nang sữa bị phá hủy một phần hay toàn bộ. Trong nang sữa ngoài Fibrin còn có các tế bào bị phân giải. Nhiệt độ cơ thể tăng 40- 410C , mệt mỏi đau đớn, giảm ăn, ngừng nhai lại, nhu động dạ cỏ giảm. Chướng hơi, sản lượng sữa giảm có khi ngừng tiết sữa. Lá vú bị viêm sưng to nóng và cứng hơn bình thường. Xoa bóp lá vú bị viêm có tiếng lạo xạo. khi vắt sữa ở lá vú bị viêm có một ít mầu vàng chứa Fibrin và những cục Casein bị đóng vón có thể chuyển thành thể Jibrin hóa thể hay viêm hoại thư. 9.2.3. Điều trị Để con vật nơi yên tĩnh , giảm thức ăn tinh và chứa nhiều nước, tăng thức ăn xanh.Tăng số lần vắt sữa và xoa bóp bầu vú. Dùng kháng sinh bơm trực tiếp vào bắp.Dùng dung dịch Glucoza, Cafein, B1 . 9.3. Viêm vú thể áp xe 9.3.1. Nguyên nhân - Do nhiễm khuẩn: Staphylococcus, Strepcoccus..Bọc áp xe được hình thành khi tuyến vú tổn thương nặng hoặc bị nhiễm khuẩn theo đường máu. Thường nó xuất hiện sau thể viêm Cata mủ, thể pibrin nặng. 9.3.2. Triệu chứng Trong tuyến vú xuất hiện 1 hay nhiều bọc áp xe to hay nhỏ khác nhau nằm sát dưới da hay ở sâu trong lá vú. Có khi cả lá vú có chứa mủ, sờ lá vú nóng, lượng sữa giảm phẩm chất kém. Sau đó bọc mủ phát triển to nổi rõ ở dưới da. Có thể thành lỗ rò rồi vỡ ra nếu bọc mủ ở sâu trong lá vú, gia súc đi lại khó khăn và có khi lây lan sang lá khác. Nếu có nhiều ổ áp xe ở sâu trong 1,2 lá vú thì con vật biểu hiện triệu chứng toàn thân rõ rệt. Ngừng tiết sữa và trong sữa vắt ra có đầy đủ mủ và máu, Casein. Nếu có nhiều bọc áp xe lớn dễ bị huyết nhiễm trùng, huyết nhiễm mủ sẽ di căn đến các cơ quan khác. 9.3.3. Điều trị Không nên xoa bóp tuyến vú. Lúc đầu chườm nóng bằng túi nước nóng hay đắp paraphin lên da vú. - Dùng Ichthyol, cồn long não xoa lên da. - Bọc mủ dưới da đã chín có thể tiến hành phẫu thuật kịp thời để tránh lỗ dò. Khi mổ tránh mạch quản. Sau khi mổ dùng thuốc sát trùng để rửa sạch mủ. Nạo các tổ chức hoại tử và đặt gạc dẫn lưu. Nếu bọc ở sâu thì dùng kim tiêm to chọc vào hút máu, mủ và sữa ra ngoài. Nếu dung dịch sữa đặc ta dùng Bicacbonat Natri 5% 50ml cho tan cục mổ rồi hút ra ngoài. - Dùng thuốc kháng sinh tiêm thẳng vào bọc mủ.. - Nếu bị viêm rộng và nặng thì ta phẫu thuật cắt bỏ lá vú bị viêm. - Tăng cường sức đề kháng, trợ sức, trợ lực. TÀI LIỆU THAM KHẢO 7. Tài liệu học tập phần ngoại khoa 1. Phan Thị Hồng Phúc, La Văn Công, Bài giảng Ngoại sản gia súc, Tài liệu lưu hành nội bộ - Trường ĐH Nông Lâm TN). 8. Tài liệu tham khảo 8.1. Phần ngoại khoa Thú y 1. Huỳnh Văn Kháng, (2000), Hướng dẫn thiến và phẫu thuật chữa bệnh cho gia súc gia cầm, Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội. 2. Huỳnh Văn Kháng, (2003), Phẫu thuật ngoại khoa Thú y, Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội. 3. Huỳnh Văn Kháng, (2003),Bệnh ngoại khoa gia súc, Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội. 4. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Quang, Phạm Đức Chương, Vũ Đình Vượng, (2003),Giáo trình Thú y cơ bản, Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội. 5. Vũ Như Quán, Phạm Khắc Hiếu (2008), Giáo trình ngoại khoa thú y, Nhà xuất bản giáo dục. . 6. Huỳnh Văn Kháng,(2006),Giáo trình Ngoại khoa thú y, Nhà xuất bản Hà Nội. 7. Phạm Ngọc Thạch, Dương Thị Anh Đào, Phạm Khắc Hiếu, Nguyễn Thị Kim Thành, Chu Đức Thắng, Chu Đình Tới,(2008),Giáo trình Chẩn đoán bệnh và bệnh nội khoa Thú y,, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 8. Nguyễn Như Thanh, Nguyễn Đường, Nguyễn Khắc Tuân, Nguyễn Thị Bích Lộc, Nguyễn Bá Hiên(2004), Vi sinh vật học đại cương, Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội. 8.2. Phần sản khoa Thú y 1. Nguyễn Tấn Anh, Nguyễn Duy Hoan (1998), Sinh lý sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 2. Phạm Sỹ Lăng, Bạch Đăng Phong (2002), Bệnh sinh sản và kỹ thuật thực hành ngoại khoa ở bò sữa, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 3. Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Thọ (2006), Các bệnh ký sinh trùng và bệnh nội sản khoa thường gặp ở lợn và biện pháp phòng trị , Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 4. Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Hữu Quán, Hoàng Văn Hoan, Trần Đức Hạnh, Nguyễn Huy Đăng (2010), Bệnh sinh sản ở vật nuôi, Nxb Hà Nội. 5. Đặng Quan Nam, Phạm Đức Chương (2002), Giải phẫu vật nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 6. Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng Phong (2002), Bệnh sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 7. Nguyễn Xuân Tỉnh, Tiết Hồng Ngân, Nguyễn Bá Mùi, Lê Hồng Loan (1996), Sinh lý gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
File đính kèm:
- giao_trinh_mo_dun_phong_tri_benh_san_khoa_thu_y.pdf