Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam

Mục tiêu:

 - Kiến thức:

+ Nhận biết được các loại hình, các thành tố và chức năng của văn hóa.

+ Phân tích được các giá trị của văn hóa đến thực hành công tác xã hội

 - Kỹ năng: Ứng dụng những thay đổi và phát triển của văn hóa vào công việc trợ giúp đối tượng

 - Năng lực tự chủ và trách nhiệm:

+ Có ý thức tự học, chăm chỉ, nghiêm túc, sáng tạo trong quá trình học tập;

+ Tự tin trong giao tiếp với đối tượng thuộc các loại hình văn hóa khác nhau, các gia đình có nếp sống văn hóa khác nhau.

Nội dung chương:

 1.1.Khái niệm văn hoá, khái niệm gần văn hoá và khái niệm cộng đồng

 1.1.1 Khái niệm văn hóa

 - Theo nghĩa thông dụng, văn hóa dùng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa).

- Theo nghĩa chuyên biệt, dùng để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn)

- Theo nghĩa rộng, văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động

* Định nghĩa văn hóa

Có rất nhiều định nghĩa về văn hóa:

Một học giả Mĩ đã cho rằng “Văn hóa là tấm gương nhiều mặt phản chiếu đời sống và nếp sống của một cộng đồng dân tộc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hóa với nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ với tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh.”

 

Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam trang 1

Trang 1

Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam trang 2

Trang 2

Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam trang 3

Trang 3

Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam trang 4

Trang 4

Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam trang 5

Trang 5

Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam trang 6

Trang 6

Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam trang 7

Trang 7

Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam trang 8

Trang 8

Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam trang 9

Trang 9

Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

docx 84 trang xuanhieu 2500
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam

Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam
n động văn hóa là: dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa. Đó là định hướng quan trọng cho sự ra đời của nền văn hóa mới ở giai đoạn sau năm 1945.
- Ngày 24-11-1946, Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất được triệu tập ở Hà Nội.
- Năm 1948, Hội nghị văn hóa toàn quốc lần hai họp tại chiến khu Việt Bắc. Đồng chí Trường Chinh đã trình bày báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam. Có thể nói đây là văn kiện lí luận đầu tiên mà Đảng ta đã vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin để giải quyết một số vấn đề của văn hóa Việt Nam.
- Các đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai (1957), lần thứ ba (1962), lần thứ tư (1968) do Đảng trực tiếp chỉ đạo đều đã đánh giá đúng đắn những thành tựu đã qua và đề ra phương hướng cho chặng đường tới.
- Đại hội đại biểu lần thứ 6 của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật, đã khẳng định vị trí vai trò của văn hóa văn nghệ.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã tiếp tục phát triển những luận điểm cơ bản của Đại hội VI, Cũng như nghị quyết V của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương khóa VII. Triển khai nghị quyết này, hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương khóa VII đã ra nghị quyết về công tác văn hóa văn nghệ. Nghị quyết đã khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người, với xã hội và thiên nhiên; Văn hóa vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vừa là một mục tiêu của chúng ta.
- Tháng 7- 1998, nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII lại tiếp tục khẳng định quan niệm ấy và chỉ ra phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
 Chính quan điểm, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đã khiến văn hóa Việt Nam từ 1945 đến nay có bước phát triển vượt bậc.
* Đặc điểm của văn hóa từ năm 1945 đến nay
a. Sự phát triển của văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệp
- Chín năm kháng chiến chống Pháp ác liệt, hoạt động báo chí in ấn, vẫn được chú trọng. Năm 1947, Đảng ta chủ trương xây dựng lại các nhà xuất bản sách và các báo. Hoạt động văn học nghệ thuật phát triển mạnh mẽ trong thời kháng chiến chống Pháp, chỉ tính riêng 9 năm từ 1945-1954, ta đã xuất bản được 8.579.415 bản sách, sản xuất được 35 bộ phim thời sự tài liệu.
- Ngay sau khi hòa bình lập lại, lực lượng hoạt động văn hóa nghệ thuật nghiệp được tổ chức lại. Các đoàn nghệ thuật như kịch nói Hà Nội, kịch nói Quân đội, kịch nói Nam Bộ, Đoàn ca múa nhạc Trung ương, Đoàn văn công Tổng cục Chính trị.; các thể loại như nhạc, kịch hát, thơ múa, các thể loại âm nhạc thính phòng đã phát triển. Vì vậy, có thể nói rằng đây là thời kì nghệ thuật ca múa và sân khấu, đặc biệt là kịch nói rất phát triển.
 Nghệ thuật điện ảnh, từ năm 1954 đến nay là bước phát triển đột biến. Đã có những phim Việt Nam như Cánh đồng hoang và một số phim khác đoạt giải thưởng quốc tế.
- Đáng kể hơn cả là sự phát triển của văn học. Trong lịch sử văn học dân tộc, chưa bao giờ đội ngũ sáng tác văn học lại đông đảo như hiện tại, và có nhiều tác phẩm như thời gian từ 1945 đến nay. Sự trong sáng về ngôn ngữ, sự đa dạng về chủ đề, sự phong phú về sáng tác, thể loại đã khiến cho nền văn học hiện đại xứng đáng với đánh giá của Đại hội đại biểu lần thứ tư của Đảng Cộng sản Việt Nam: Đứng vào hàng tiên phong của văn học các dân tộc bị áp bức, đấu tranh giải phóng dân tộc.
 + Nhiều nhà hoạt động văn hóa sinh ra và trưởng thành từ đội ngũ những người lao động. Nhà văn Võ Huy Tâm, Nguyễn Khảicả hai vốn là công nhân, bộ đội.
 + Chính hai cuộc kháng chiến oai hùng của dân tộc đã đào luyện một đội ngũ những nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệp. Ở lĩnh vực văn học như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Nguyễn ThiSân khấu như Đào Hồng Cẩm, Lưu Quang Vũđiện ảnh như Bùi Đình Hạc, Trà Giang, Nguyễn Hải Ninh
- Chưa bao giờ trong diễn trình văn hóa Việt Nam lại có một phong trào văn hóa quần chúng như 50 năm qua. Trong kháng chiến chống Pháp có phong trào kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến thì kháng chiến chống Mĩ lại có phong trào tiếng hát át tiếng bom, tiếng loa òa tiếng súng.
b. Kế thừa và nâng cao các giá trị văn hóa truyền thống
- Ngay từ năm 1946, Hồ Chí Minh đã phát biểu trong Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất: Phải biết tiếp thu những kinh nghiệm quý báu của nền văn hóa xưa và nay để xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam với ba tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng. Cho nên 50 năm qua, công tác kế thừa, phát triển văn hóa truyền thống đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
 + Nghệ thuật truyền thống như chèo, tuồng, mĩ thuật dân gian, việc kế thừa được thực thi ở cả hai phương diện khôi phục, bảo tồn và chỉnh lí, cải biên.
 + Công tác sưu tầm nghiên cứu văn hóa dân gian đã đạt được những thành tựu vượt bậc. Có những công trình như Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chinhư lễ hội với Lễ hội cổ truyền của người Việt ở Bắc Bộ Việt Nam do Lê Trung Vũ chủ biênmĩ thuật dân gian với các công trình Mĩ thuật thời Lí, Trần, Lê, Sơ, Mạc, Mĩ thuật Huế của Viện mĩ thuật
- Với văn học bác học, công việc nghiên cứu đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhiều tác giả của văn học cổ được nghiên cứu, đánh giá, khẳng định như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương
- Việc khai thác di sản văn hóa dân tộc ngày càng được chú trọng. Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc được Đảng, nhà nước đặt ở tầm vĩ mô để giải quyết các công việc nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
 Đặc trưng bao quát nhất của văn hoá tiên tiến là yêu nước. Yêu nước là đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, phấn đấu vì dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh – đó là một nội dung tư tưởng lớn của nền văn hoá tiên tiến. Gắn liền với yêu nước là tiến bộ. Nền văn hoá tiên tiến phải là nền văn hoá kết tinh tất cả những gì tiến bộ, là chân, là thiện, là mỹ của dân tộc, của thời đại, của loài người.
Tính chất tiên tiến của nền văn hoá Việt Nam không tách rời bản sắc dân tộc. Nói đến văn hoá là nói đến dân tộc. Văn hoá bắt rễ sâu trong đời sống dân tộc qua trường kỳ lịch sử. Văn hoá là bộ mặt tinh thần của dân tộc. Bản sắc dân tộc của văn hoá như người ta nói là cái căn cước, chứng chỉ của một dân tộc.
 2.4.2.Văn hoá cổ truyền trước công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá
Đất nước ta đang ở thời kỳ quá độ với nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội đòi hỏi huy động tối đa tiềm năng vật chất và tinh thần của cả dân tộc, của tất cả các thành phần kinh tế. Chủ nghĩa yêu nước ở đây là một động lực cực kỳ to lớn. Nền văn hoá tiên tiến do đó trước hết phải là một nền văn hoá yêu nước.
 Trong điều kiện thức hiện kinh tế thị trường mở rộng giao lưu quốc tế lại càng phải nhấn mạnh yêu cầu ra sức kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Đó không chỉ là ý thức trách nhiệm, mà còn là niềm tự hào, tự tôn dân tộc, bởi “Nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Những đặc trưng nổi bật nhất của văn hoá Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước, yêu lao động, lòng nhân ái, vị tha và tính cộng đồng. Những giá trị truyền thống đó đã từng là nguồn sức mạnh to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Ngày nay,bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, những truyền thống ấy vẫn đang là những đòi hỏi cần phải có đối với mọi người. Không phải bất cứ dân tộc nào trên hành tinh này cũng có được may mắn kế thừa những truyền thống và bản lĩnh văn hoá như vậy. Dân tộc Việt Nam có truyền thống tự tôn nhưng không tự cao, tự đại; càng không đóng cửa để tự ngắm tự cô lập mình.
2.4.3.Văn hoá Việt Nam hội nhập và phát triển 
 Từ 1945 đến nay, sự giao lưu văn hóa diễn ra trong sự tự nhiên và tự giác. Tiếp thu tinh hoa văn hóa nước ngoài để xây dựng nền văn hóa mới là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ta đối với công tác văn hóa.
 Việc trao đổi văn hóa với nước ngoài được chú ý ngay từ sau khi hòa bình lập lại, ở tất cả các bộ môn văn hóa: Sân khấu, âm nhạc, ca múa, giao hưởng, điện ảnh, thư viện, bảo tang, văn hóa quần chúng, ba lêNhiều hiệp định văn hóa được kí kết giữa nước ta và các nước bạn.
 Ở miền Nam từ 1954-1975, giao lưu văn hóa Việt Nam và văn hóa Mĩ, không phải là giao lưu tự nhiên và là giao lưu cưỡng bức.
 Từ sau năm 1975, hai miền thống nhất, việc giao lưu văn hóa giữa nước ta và thế giới càng diễn ra mạnh mẽ hơn.
 Sự tiến bộ về khoa học kĩ thuật, nhất là khoa học thông tin hiện đại, đã khiến cho việc giao lưu văn hóa ở thời hiện đại diễn ra mạnh mẽ hơn nhiều so với trước đây. 
 Về văn hoá, Đảng ta thực hiện giao lưu văn hoá với nước ngoài với nhiều hình thức: giới thiệu rộng rãi những giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam với thế giới, đồng thời cũng lựa chọn đưa vào nước ta các giá trị văn hoá tiến bộ của các nước, mở rộng hoạt động văn hoá quốc tế dưới nhiều hình thức hợp tác, trao đổi, học tập lẫn nhau. Tuy nhiên cần có những quy định và biện pháp hữu hiệu để bảo vệ các giá trị văn hoá dân tộc, chống nạn chảy máu văn hoá, nhất là đối với các cổ vật, bảo vật quốc gia, cũng như chống sự thâm nhập vào nước ta những văn hoá phẩm độc hại, đồi trụy .v.v..
 Những biến đổi của hoàn cảnh lịch sử hôm nay đã khiến cho giao lưu tiếp biến ở Việt Nam thay đổi về nhiều phương diện: 
 Thứ nhất, giao lưu và tiếp biến văn hoá hôm nay là giao lưu và tiếp biến trong thời đại tin học. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin khiến cho văn hoá, các sản phẩm văn hoá trở nên vô cùng phong phú, đa dạng.
 Thứ hai, công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam khiến cho giao lưu và tiếp biến văn hoá trong tư thế chủ động, tự nguyện, không bị áp đặt hay cưỡng chế.
 Thứ ba, giao lưu và tiếp biến văn hoá Việt Nam hiện nay đã tạo được sự chuyển biến văn hoá trên tất cả các lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo .v.v...
Thứ tư, giao lưu văn hoá ở Việt Nam đang đặt ra những thời cơ và những thách thức mới. Vấn đề đặt ra là làm thế nào mở rộng cánh cửa giao lưu để văn hoá dân tộc có cơ hội phát triển , hoà nhập với thế giới hiện đại mà vẫn giữ được bản sắc văn hoá dân tộc.
 Chưa bao giờ văn hoá dân tộc ta có những bước chuyển biến toàn diện và sâu sắc như hiện nay. Đây là thời kỳ chuyển đổi mạnh mẽ cả về quan niệm giá trị, chuẩn mực văn hoá, chuyển đổi cả công nghệ, kỹ thuật và cơ sở vật chất của văn hoá, chuyển đổi về đội ngũ nhân sự, bộ máy hoạt động văn hoá, cùng với nó là sợ chuyển đổi lối sống, nếp tư duy, tầm nhìn và cách nhìn của cá nhân và cộng đồng với hàng loạt các nhu cầu văn hoá phong phú và đa dạng của nhân dân. Sự chuyển đổi này có cơ sở khách quan từ sự đổi mới toàn diện của đất nước mà cốt lõi cơ bản là phát triển kinh tế thị trường đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ quốc tế. Sự chuyển đổi này là kết quả của quá trình vận động đầy mâu thuẫn, đầy xung đột, mang kịch tính cao đến mức khắc nghiệt, nhưng đây chính là mâu thuẫn trong quá trình vận động phát triển của đất nước. Vì vậy, sự bình tĩnh và khách quan trong đánh giá các hiện tượng văn hoá – xã hội là một yêu cầu lớn hiện nay.
 Chưa bao giờ sức ép của xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá được sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại tác động vào nền văn hoá của các dân tộc, các quốc gia lại mạnh mẽ, toàn diện và sâu sắc như hiện nay. Sự đầu tư trực tiếp, gián tiếp của các công ty đa quốc gia và xuyên lục địa, sự giao lưu thương mại và dịch vụ với khối lượng hàng hoá khổng lồ, sự tăng cường dịch vụ du lịch, giải trí, sự mở rộng hệ thống thông tin truyền thông đại chúng,v.v đã làm cho “tan băng” ở các quốc gia “đóng” và “sốt” lên ở các quốc gia “mở”. Ranh giới địa lý hữu hình giữa các quốc gia không cản nổi sự xâm tràn của các trào lưu văn hoá xa lạ. Xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá vừa mang lại thời cơ lớn, đồng thời vừa là thách thức lớn đối với mỗi nền văn hoá khác nhau, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển.
 Mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế trở thành một trong những vấn đề trung tâm của thời đại. Các dân tộc trong quá trình phát triển đang tìm cách kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tranh thủ thời cơ, chống lại các nguy cơ để tập trung xây dựng đất nước. Sức mạnh của sự liên kết cộng đồng được đặc trung ở việc giữ gìn, phát huy bản sắc và bản lĩnh văn hoá của dân tộc trong giao lưu quốc tế. Do đó , cùng với xu thế hội nhập quốc tế là xu thế bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc và bản lĩnh dân tộc, chống lại xu hương “đồng hoá” hay “nhất thề hoá” về văn hoá.
 Bản sắc văn hoá là những dấu hiệu đặc trưng để phân biệt văn hoá của cộng đồng này với cộng đồng khác, dân tộc này với dân tộc khác, quốc gia này với quốc gia khác. Đây là “gien” di truyền văn hoá của từng dân tộc. “Gien” di truyền này kết tinh ở truyền thống văn hoá dân tộc thể hiện trong lối sống, trong phong tục, tập quán, trong các hoạt động sản xuất vật chất và tinh thần của cộng đồng. Trong giao lưu quốc tế, các dân tộc sẽ đánh mất sự tồn tại của mình nếu mất bộ “gien” di truyền văn hoá. 
 Phát huy nội lực của văn hoá dân tộc chính là tạo nên một dòng chảy liên tục của truyền thống văn hoá dân tộc nhằm khẳng định bản sắc và bản lĩnh văn hoá. Đây là nền tảng chủ yếu để xây dựng “nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, là “bộ lọc” các giá trị văn hoá ngoại nhập, chống lại những tác động phi văn hoá, phản văn hoá từ bên ngoài.
2.4.4.Vai trò của cán bộ XH trong một quốc gia đang hội nhập quốc tế
 - Do giao lưu và tiếp biến văn hoá hôm nay là giao lưu và tiếp biến của sự bùng nổ công nghệ thông tin và khiến cho văn hoá, các sản phẩm văn hoá trở nên vô cùng phong phú, đa dạng. Vì v ậy cán bộ x ã h ội cần ph ải liên tục học hỏi để nâng cao trình độ, cập nhật những kiến thức mới
 - CBXH cần tìm hiểu, giao lưu và tiếp biến văn hoá trong tư thế chủ động, tự nguyện, không bị áp đặt hay cưỡng chế.
 - Giao lưu văn hoá ở Việt Nam đang đặt ra những thời cơ và những thách thức mới. Để mở rộng cánh cửa giao lưu và văn hoá dân tộc có cơ hội phát triển , hoà nhập với thế giới hiện đại mà vẫn giữ được bản sắc văn hoá dân tộc, ng ười CBXH c ần tuyên truyền phù hợp và hiệu quả các kiến thức cơ bản của văn hoá dân tộc
Tài liệu tham khảo
1. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB TP. Hồ Chí Minh 
2. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, NXB TP. Hồ Chí Minh . 
3. Phạm Văn Đồng (1995), Văn hóa và Đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia
4. Phan Ngọc (1994),Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, NXB Văn hóa - Thông tin
5. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam: Cái nhìn hệ thống - loại hình, NXB TP. Hồ Chí Minh.
6.. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục
7.Trần Quốc Vượng (chủ biên), (1996), Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Khoa học xã hội 
8..Đinh Gia Khánh (1993), Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hội .

File đính kèm:

  • docxgiao_trinh_co_so_van_hoa_viet_nam.docx