Giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập quốc tế của Việt Nam
Hội nhập quốc tế là xu thế phát triển khách quan, tuy nhiên, đối với mỗi quốc gia,
hội nhập quốc tế luôn là một quá trình phức tạp, vừa mang đến những cơ hội
phát triển vừa mang đến những thách thức với nhiều vấn đề cần phải giải quyết.
Bài viết phân tích, luận giải những vấn đề đang đặt ra đối với việc giải quyết mối
quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập quốc tế của Việt Nam và một
số nội dung liên quan nhằm góp phần thúc đẩy quá trình chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế của Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập quốc tế của Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập quốc tế của Việt Nam
ngoài. Vấn đề thứ ba, mâu thuẫn giữa những hạn chế, bất cập về cơ chế, chính sách, pháp luật quốc gia với những quy định và luật pháp quốc tế. Theo Quy định tại Điều XVI, khoản 4, Hiệp định Marrakesh về thành lập WTO: “Mỗi nước thành viên sẽ đảm bảo sự thống nhất các luật, quy định và những thủ tục hành chính với những nghĩa vụ của mình được quy định trong các hiệp định.”(3). Như vậy, việc gắn kết mang tính thể chế giữa các nền kinh tế yêu cầu các quốc gia không chỉ mở cửa và thúc đẩy tự do hóa kinh tế; mà còn góp phần xây dựng các thể chế kinh tế quốc tế. Gia nhập WTO nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung là tham gia một “sân chơi” với những “luật chơi” cụ thể. Khi TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (269) 2021 18 tham gia vào “sân chơi” ấy, các quốc gia rất cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật quốc gia đảm bảo thực hiện đồng bộ, phù hợp với các quy định và luật pháp quốc tế. Những cam kết của quốc gia đối với quốc tế thực chất là những ràng buộc pháp luật quốc gia với các quy định và luật pháp quốc tế. Đồng thời, sự phát triển nhanh và đa dạng của các quan hệ quốc tế cũng đòi hỏi quốc gia phải xây dựng hệ thống cơ chế chính sách, pháp luật đồng bộ để duy trì các mối quan hệ trong “vòng trật tự”, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển. Trước yêu cầu của thực tiễn hội nhập quốc tế, Việt Nam đã nỗ lực hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách, pháp luật. Tuy nhiên, hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật của Việt Nam còn đang thiếu đồng bộ, chưa theo kịp những biến đổi nhanh chóng của thực tiễn. Đặc biệt, không ít nội dung còn khác biệt, mâu thuẫn với những quy định và luật pháp quốc tế. Từ đó đặt ra những vấn đề: - Cần bổ sung xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật của quốc gia theo hướng khắc phục triệt để những hạn chế của cơ chế cũ; loại bỏ những kẽ hở pháp luật dẫn đến hành vi gây ảnh hưởng nghiêm trọng lợi ích quốc gia. - Cần xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật đồng bộ, thống nhất và đổi mới. Tuy nhiên, ở Việt Nam nhiều văn bản pháp luật được ban hành từ tính cấp bách của thực tiễn nên chỉ được xem như những giải pháp tình thế. Chính vì ít xuất phát từ tính thống nhất và đồng bộ của cơ chế, chính sách và pháp luật đã dẫn đến tình trạng nhiều văn bản pháp luật không ổn định, mâu thuẫn... Bên cạnh đó, một số vấn đề cấp bách lại chậm được luật hóa; không ít quy định quan trọng nằm trong các văn bản dưới luật với giá trị pháp lý không cao. Điều này dẫn đến hiệu quả điều chỉnh của hệ thống pháp luật bị hạn chế. Một số quy định pháp luật trong hội nhập quốc tế chưa cụ thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật không nhất quán, chưa mang tính hệ thống nên không những không bảo vệ được lợi ích quốc gia, mà thậm chí còn vi phạm những quy định và luật pháp quốc tế. - Việc xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách và pháp luật cũng như sự vận hành cơ chế, chính sách, pháp luật chưa tuân thủ theo một trình tự khoa học, vì vậy, thiếu tính chặt chẽ, chưa hiệu quả. Bản thân các cơ chế, chính sách, pháp luật nảy sinh từ nhu cầu điều chỉnh của các quan hệ xã hội nhưng có những văn bản còn xa rời thực tế, dựa vào ý muốn chủ quan nên chưa phản ánh kịp sự vận động, phát triển của các quan hệ kinh tế - xã hội... - Việc chấp hành cơ chế, chính sách, pháp luật của các tổ chức và cá nhân chưa nghiêm; công tác kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả chưa được coi trọng. Có mâu thuẫn giữa trình độ, năng lực của chủ thể nắm quyền lực PHẠM XUÂN THIÊN – GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA HỢP TÁC 19 nhà nước với yêu cầu xây dựng, quản lý, giám sát hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vừa mâu thuẫn với các quy định và luật pháp quốc tế. 4. GIẢI PHÁP CƠ BẢN GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA HỢP TÁC VÀ ĐẤU TRANH TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM Để giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập quốc tế, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó tập trung vào những giải pháp cơ bản sau đây: Thứ nhất, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Trước hết, các chủ thể cần nhận thức đúng đắn tính hai mặt hợp tác và đấu tranh của quá trình hội nhập quốc tế; tầm quan trọng của việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt và những tác động trực tiếp của kinh tế thị trường... Hội nhập quốc tế đòi hỏi cán bộ, công chức và người lao động phải làm chủ khoa học - kỹ thuật; giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, có năng lực sáng tạo cao; có tính chuyên nghiệp trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Bên cạnh đó, mỗi người cần nghiêm túc tu dưỡng, rèn luyện để có phẩm chất đạo đức tốt; quán triệt sâu sắc quan điểm: con người là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội, là nguồn lực của mọi nguồn lực; “cán bộ là gốc của mọi công việc”, công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém; huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Hơn bao giờ hết, các ngành chức năng cần nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng kiến thức khoa học và công nghệ có liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế; chủ động tuyển chọn, đưa người đi đào tạo ở các trường có uy tín trên thế giới; tích cực trao đổi chuyên gia trong và ngoài nước. Đẩy mạnh phát triển giáo dục - đào tạo góp phần tạo động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quan tâm phát triển đội ngũ doanh nhân, cán bộ, nhân viên trực tiếp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế. Từng bước đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo; trang bị tri thức chuyên ngành cho đội ngũ cán bộ, doanh nhân ngay từ trong các trường đại học. Đối với đội ngũ doanh nhân, trong điều kiện nhất định có thể từng bước được bổ sung, khắc phục sự thiếu hụt về tri thức thông qua hợp tác, song cần nâng cao những giá trị chuẩn mực đạo đức của dân tộc, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, phê phán sự làm ăn gian dối, bất nhân tạo ra sự nguy hại cho cả cộng đồng. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh, Việt Nam cần đổi mới cơ chế, chính sách; đãi ngộ thỏa đáng trong lĩnh vực hội nhập quốc tế theo nguyên tắc: căn cứ hiệu quả thực hiện công việc, thỏa đáng, công bằng và minh bạch, đúng người, đúng TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (269) 2021 20 việc nhằm phát huy nguồn lực con người, khơi dậy tiềm năng sáng tạo của họ. Thứ hai, bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay Việt Nam cần bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách đồng bộ và toàn diện để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế, giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Để có được hệ thống chính sách đồng bộ, phù hợp với những nguyên tắc và luật pháp quốc tế, cần thực hiện tốt những vấn đề sau: - Bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật đồng bộ, phù hợp với các nguyên tắc của các tổ chức kinh tế và luật pháp quốc tế. Rà soát lại hệ thống cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói chung và những chính sách liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng, để tìm ra những vấn đề cần khắc phục. Việc rà soát này cần kết hợp với việc nghiên cứu thực tiễn hội nhập quốc tế một cách nghiêm túc. Trước mắt, cần ưu tiên vào việc nghiên cứu, bổ sung và ban hành những chính sách liên quan trực tiếp đến hội nhập kinh tế quốc tế như: chính sách về thuế quan và phi thuế quan; về thương mại, đầu tư; về xuất khẩu, nhập khẩu; về đất đai... - Việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách về hội nhập kinh tế quốc tế cần thực hiện theo đúng lộ trình; thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm để tiếp tục chỉnh sửa, bổ sung hoàn thiện. Đẩy nhanh việc thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật và các chính sách cụ thể của Nhà nước. Tích cực nghiên cứu, học tập kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia phát triển, đi trước và vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam trên cơ sở giữ vững sự ổn định chính trị, độc lập, chủ quyền quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa. - Nghiên cứu sự khác biệt của pháp luật Việt Nam với pháp luật của các quốc gia là đối tác của Việt Nam. Từng bước điều chỉnh, bổ sung những chính sách kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước, xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với pháp luật của các nước có trao đổi thương mại và luật pháp quốc tế để hạn chế những tranh chấp thương mại có thể xảy ra. Đặc biệt, cần tạo môi trường pháp lý thông thoáng, thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng các nguyên tắc ứng xử quốc tế; thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường, dỡ bỏ hàng rào thuế quan... Đồng thời, cần cảnh giác, khôn khéo trong ứng xử quốc tế, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của Việt Nam, trên cơ sở nhận thức đối tác, đối tượng để có những phương pháp đấu tranh phù hợp. PHẠM XUÂN THIÊN – GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA HỢP TÁC 21 Thứ ba, xây dựng môi trường chính trị - xã hội ổn định, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, nâng cao thế và lực của Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Có thể khẳng định, hòa bình, ổn định là khát vọng và là cơ hội để các quốc gia dân tộc phát triển. Việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội góp phần to lớn củng cố, nâng cao uy tín, thế và lực của Việt Nam trong việc giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, tình hình quốc tế có những biến đổi nhanh chóng, khó lường. Trong vài thập niên tới, hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc và tôn giáo, tranh giành tài nguyên và lãnh thổ, nạn khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia có thể gia tăng cùng với những vấn đề toàn cầu khác như đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên, buộc các quốc gia phải có chính sách phối hợp hành động. Thực tiễn phát triển đất nước đã khẳng định sự cần thiết phải có độc lập, tự chủ và bảo vệ chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trước sự phát triển với tốc độ, quy mô, hình thức chưa từng thấy của hội nhập quốc tế. Việt Nam cần tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để giữ vững hòa bình, độc lập và chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài. Các địa phương không để xuất hiện những mâu thuẫn, xung đột trong nội bộ nhân dân và những yếu tố có thể tạo cớ cho các thế lực thù địch can thiệp. Đặc biệt, trong bối cảnh có những thế lực lợi dụng hội nhập quốc tế, khoác tấm áo hợp tác, đầu tư nhưng thực chất là chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam, cần kết hợp chặt chẽ hội nhập kinh tế với hội nhập trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, từng vùng, từng địa phương Cần nắm vững và bám sát những diễn biến của tình hình trong nước và quốc tế. Những diễn biến ấy không chỉ tạo cơ hội to lớn, mà còn làm xuất hiện những thách thức không nhỏ trong thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Mỗi chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế và quốc phòng - an ninh cần hướng tới mục tiêu chung là phát triển kinh tế nhanh, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả và bảo vệ vững chắc nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước trong hoạt động đối ngoại, tích cực quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác cùng phát triển, sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước, là thành viên tích cực và có TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (269) 2021 22 trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Tích cực đẩy mạnh toàn diện hoạt động đối ngoại; tập trung nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại góp phần làm cho thế giới ngày càng hiểu đúng, đầy đủ về đất nước con người Việt Nam. Để tạo được sức mạnh tổng hợp, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, vì lợi ích quốc gia dân tộc, cần đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước, tăng cường phối hợp, đẩy mạnh một cách toàn diện ngoại giao Đảng, Nhà nước, ngoại giao nhân dân. 5. KẾT LUẬN Giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập quốc tế của Việt Nam là vấn đề phức tạp, đòi hỏi sự thận trọng và nghiêm túc từ nhận thức đến hành động. Đồng thời, cần có quá trình với những quy trình và biện pháp chắc chắn và hiệu quả. Những nội dung trên, đặc biệt là việc nhận thức đầy đủ những vấn đề đặt ra đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập quốc tế của Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng trong thực hiện đường lối chủ động tích cực hội nhập quốc tế, mở rộng con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. CHÚ THÍCH (1) , (2) Theo Ngân hàng Thế giới (2018), “ DP (current US$)”. World Development Indicators. World Bank. Tổng sản phẩm quốc nội DP (danh nghĩa): Hoa Kỳ: 20.494.100 triệu USD; Trung Quốc: 13.608.152 triệu USD; Việt Nam: 244.948 triệu USD; Tonga (thành viên WTO): 450 triệu USD. (3) https://thuvienphapluat.vn/van-ban/thuong-mai/Hiep-dinh-Marrakesh-204-WTO-VB-thanh- lap-to-chuc-Thuong-mai-The-gioi-14945.aspx. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2016. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 2. C. Mác và Ph. Ăngghen. 1995. Toàn tập, tập 2. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 3. Phạm Quốc Trụ. 2011. “Hội nhập quốc tế: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. te-mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien, ngày truy cập 31/8/2020. 4. Phạm Xuân Thiên. 2015. Mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 5. Vũ Văn Hiền. 2020. “Xung đột và thỏa hiệp trong quan hệ quốc tế”. https://www.tapchi congsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/815791/xung-dot-va-thoa-hiep- trong-quan-he-quoc-te.aspx, ngày 14/01/2020. 6. World Bank (Ngân hàng Thế giới). 2018. “ DP (current US$)”. The World Bank, https://data.worldbank.org/indicator/NY.GDP.MKTP.CD, truy cập 15/10/2019.
File đính kèm:
- giai_quyet_moi_quan_he_giua_hop_tac_va_dau_tranh_trong_hoi_n.pdf