Giải pháp xây dựng hệ thống điện truyền tải linh hoạt
Quy mô Hệ thống điện (HTĐ) Việt Nam đã có sự phát triển ấn tượng trong
hai thập kỷ vừa qua. Nếu năm 2000, sản lượng tiêu thụ điện của Việt Nam chỉ là 22 tỷ
kWh, đứng thứ 58 thế giới, thì đến năm 2016 đã đạt 159 tỷ kWh, vượt 23 bậc lên xếp
thứ 25/196 quốc gia. Xét trên quy mô châu Á thì Việt Nam đang đứng thứ 10/40 nước
về sản lượng tiêu thụ điện. Để đáp ứng nhu cầu phụ tải, HTĐ truyền tải 500-220 kV
Việt Nam cũng có sự phát triển ngoạn mục. So với năm 2000, công suất Trạm biến áp
(TBA) truyền tải đã tăng 7 lần, chiều dài đường dây truyền tải tăng hơn 5 lần. Tuy
nhiên, sự gia tăng nhanh chóng về quy mô đã làm cho lưới truyền tải Việt Nam đang
phải đối mặt với nhiều vấn đề nan giải như: dòng điện ngắn mạch tăng dần theo từng
năm và đã vượt mức dòng cắt cho phép của thiết bị; tiêu chí N-1 của lưới điện chưa
đạt (hiện mới chỉ đáp ứng được khoảng 80%) [1]; điện áp cao và điện áp thấp ngoài
ngưỡng cho phép vẫn xuất hiện thường xuyên; các vấn đề mất ổn định dao động đe
dọa thường trực tới vận hành HTĐ,.
Bài viết tập trung vào các giải pháp nâng cao độ an toàn, tin cậy và ổn định trong vận
hành hệ thống điện dựa trên quan điểm cần xây dựng hệ thống điện truyền tải có tính
linh hoạt cao. Tính linh hoạt của HTĐ cần phải thể hiện rõ nét trong các khâu: (i) Quy
hoạch phát triển Hệ thống điện; (ii) Thiết kế Trạm biến áp và Đường dây tải điện; (iii)
Xây dựng hệ thống điện truyền tải thông minh; (iv) Sử dụng các thiết bị truyền tải điện
linh hoạt FACTS.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp xây dựng hệ thống điện truyền tải linh hoạt
. Phần trình bày tiếp theo sẽ đưa ra các ý tưởng và đề xuất đối với việc thiết kế chi tiết ĐZ và TBA truyền tải. 3. TÍNH LINH HOẠT CỦA LƯỚI TRUYỀN TẢI ĐIỆN CẦN ĐƯỢC QUAN TÂM NGAY TỪ KHÂU QUY HOẠCH Ở phần trên đã đề xuất giải pháp để tạo sự linh hoạt trong vận hành LTT, đó là xem xét mức mang tải thiết kế của trạm chỉ ở mức không quá 50%, chọn gam máy lớn và xem xét thiết kế trạm theo tiêu chuẩn 4 MBA. Còn một yếu tố nữa có ý nghĩa quyết định làm cải thiện tính linh hoạt của LTT, đó là sơ đồ thanh cái của TBA truyền tải. Sự kém linh hoạt của LTT Việt Nam hiện nay có nguyên nhân rất lớn từ sự kém linh hoạt của các sơ đồ thanh cái 220 kV và 500 kV. Hầu hết các TBA truyền tải hiện nay chỉ vận hành với 02 thanh cái (sơ đồ 2 thanh cái, sơ đồ 3/2, 4/3). Một số sân phân phối 220 kV có thêm thanh cái vòng, tuy nhiên, thanh cái này chỉ có ý nghĩa dự phòng và được sử dụng khi tiến hành sửa chữa, thao tác trên lưới. Triết lý trạm 2 thanh cái của Việt Nam rất khác với triết lý thiết kế thanh cái của các nước phát triển (Nhật Bản, châu Âu). Nhật Bản sử dụng sơ đồ 4 thanh cái, còn các nước châu Âu sử dụng sơ đồ từ 3 đến 4 thanh cái (hình 9). BÁO CÁO CHUNG | 23 Theo đánh giá của các chuyên gia Đức và Bỉ [13], sơ đồ 2 thanh cái của Việt Nam sẽ khó đảm bảo tiêu chí N-1 nếu sự cố 1 thanh cái. Thực tế EVN cũng đã đưa ra định nghĩa N-1, bao gồm sự cố mất 1 thanh cái của TBA có từ 2 thanh cái trở lên [16]. Ngoài khả năng linh hoạt cao trong việc xây dựng phương thức vận hành, các sơ đồ 3-4 thanh cái như trên còn giúp dễ dàng tách lưới, làm giảm dòng ngắn mạch một cách đáng kể (do tổng trở chung tăng 2 lần so với không tách). Tách thanh cái là biện pháp đơn giản nhất và kinh tế nhất để giảm dòng điện ngắn mạch tổng của hệ thống. Sơ đồ thanh cái kiểu Nhật Bản Sơ đồ thanh cái kiểu Anh Hình 9: Sơ đồ thanh cái điển hình của TBA truyền tải các nước phát triển Việc bố trí chưa hợp lý các ngăn lộ MBA tại một số trạm cũng sẽ làm giảm tính linh hoạt trong vận hành, như tại TBA 500 kV Ô Môn, Vĩnh Tân, Thường Tín (hình 10). Ở các sơ đồ này, nếu rơ le báo sự cố máy cắt 530 thì toàn bộ 02 MBA 500 kV của trạm sẽ bị tách ra khỏi vận hành, có khả năng gây mất điện diện rộng. Các nguyên tắc đấu nối của các lộ xuất tuyến ĐZ và MBA trong trạm truyền tải cũng cần được quy định một cách rõ ràng, thậm chí có thể trở thành các tiêu chuẩn nội bộ, tiêu chuẩn ngành. Đấu nối 2 MBA 500 kV Ô Môn Đấu nối 2 MBA 500 kV Vĩnh Tân Hình 10: Sơ đồ đấu nối các MBA 500/220 kV tại Ô Môn và Vĩnh Tân Đối với việc thiết kế chi tiết đường dây tải điện, có thể xem xét giải pháp xây dựng các cột chuẩn hóa, có khả năng treo được loại dây có tiết diện phân pha lớn, mặc dù ở thời điểm vận hành ban đầu chỉ cần treo trước dây có tiết diện nhỏ hơn. Triết lý này đang được sử dụng ở Đức. Giải pháp trên sẽ giúp giữ được hành lang tuyến, đồng 500kV 500kV 220kV MBA 500/220 kVM¸y c¾t 24 | HỘI NGHỊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐIỆN LỰC TOÀN QUỐC 2017 thời có thể đối phó tốt với sự biến động lớn của nguồn và phụ tải điện trong tương lai, rất phù hợp với HTĐ đang phát triển nhanh và còn nhiều bất định như Việt Nam. 4. XÂY DỰNG HỆ THỐNG TRUYỀN TẢI THÔNG MINH Hệ thống truyền tải điện thông minh thể hiện ở nhiều lĩnh vực như: tự động hóa TBA; hệ thống thu thập số liệu đo lường; giám sát và phát hiện sự cố TBA; hệ thống thông tin địa lý (GIS); hệ thống giám sát diện rộng (WAMS); giám sát quá nhiệt đường dây; giám sát sét đánh; Dưới góc độ xây dựng HTĐ truyền tải linh hoạt, cần phát triển trước hết 2 lĩnh vực: hình thành mạng lưới TBA không người trực và hoàn thiện hệ thống điều khiển giám sát từ xa. Đây rõ ràng là một thách thức rất lớn của NPT do sự đa chủng loại về thiết bị TBA (nhất thứ, nhị thứ) và sự đa dạng về hệ thống điều khiển tự động hóa. Sự đa chủng loại thiết bị nhất thứ được thể hiện ở nguồn gốc xuất xứ. Đối với MBA, có 20 nhà cấp hàng, còn thiết bị đóng cắt có khoảng 12 công ty cung cấp (hình 11) [13]. Tỷ lệ MBA phân theo xuất xứ Tỷ lệ máy cắt phân theo xuất xứ Hình 11: Sự đa chủng loại phân theo xuất xứ của các thiết bị nhất thứ Hiện nay trên phạm vi LTT Việt Nam có 12 loại hệ thống tự động hóa với 8 nhà sản xuất khác nhau và có hơn 2 loại giao thức truyền tin [13] (xem hình 12). Tỷ lệ các hệ thống điều khiển tự động hóa TBA truyền tải hiện có Phân loại số hệ thống tự động hóa theo giao thức truyền tin Hình 12: Sự đa chủng loại của hệ thống điều khiển tự động hóa BÁO CÁO CHUNG | 25 Trong 3 năm 2013, 2014, 2015 ghi nhận 17 trường hợp sự cố MBA dẫn tới phải dừng máy để sửa chữa. Xét theo nguồn gốc xuất xứ thì có 71% số sự cố MBA là tại các MBA có xuất xứ từ Trung Quốc. MBA của Việt Nam sản xuất có 3/17 sự cố, chiếm 17% xếp thứ 2. Các MBA sản xuất từ châu Âu, Nhật Bản không ghi nhận sự cố nghiêm trọng. Nếu xét theo tuổi máy, số máy biến áp đã vận hành dưới 10 năm chiếm 70,4% số máy và chiếm 75,4% công suất đặt. Các máy biến áp có tuổi dưới 5 năm chiếm 44,8% số máy và 53,2% công suất đặt. Trên lưới vẫn còn khoảng 5 MBA có tuổi từ 22 - 28 năm. Có 30% số MBA tuổi đời cao trên 10 năm nhưng trong 3 năm gần đây đều không ghi nhận sự cố. Các sự cố MBA chủ yếu rơi vào các máy có tuổi dưới 5 năm. Nâng cao chất lượng thiết bị, đặt biệt là các máy biến áp, đồng thời chuẩn hóa hệ thống điều khiển tự động hóa sẽ giúp đẩy nhanh tiến trình xây dựng các TBA truyền tải không người trực và cải thiện độ tin cậy cung cấp điện. Giải pháp có thể xem xét là: tiến hành nghiên cứu khách quan, khoa học về chất lượng các loại thiết bị hiện nay trên lưới, công bố danh sách “đen” các hãng cung cấp thiết bị có chất lượng kém nhất, không phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng phát triển của LTT Việt Nam; đồng thời hướng tới nội địa hóa các thiết bị chính trên lưới điện (như MBA, máy cắt, dao cách ly,) để tránh phụ thuộc quá nhiều vào nước ngoài, tiết giảm chi phí sửa chữa, bảo dưỡng, vận hành. 5. SỬ DỤNG CÁC THIẾT BỊ TRUYỀN TẢI LINH HOẠT FACTS Tác dụng của các thiết bị FACTS là giúp cải thiện điện áp, tần số HTĐ, tăng độ an toàn - tin cậy cung cấp điện, điều khiển được dòng công suất tác dụng trên hệ thống. Tuy nhiên chi phí cho các thiết bị FACTS áp dụng cho LTT không hề rẻ, nhất là đối với hệ thống điện truyền tải chỉ gồm 2 cấp 500-220 kV như Việt Nam (hầu hết các nước đều coi LTT là từ cấp 66 kV trở lên). Một số thiết bị FACTS có tiềm năng áp dụng cho LTT Việt Nam là: thiết bị bù tĩnh SVC (Static Var Compensator), thiết bị bù dọc có điều khiển TCSC (Thyristor Controlled Series Capacitor), máy biến áp dịch pha (phase- shifting transformer theo cách gọi của Mỹ, châu Âu hoặc quadrature booster theo cách gọi của Anh). SVC hiện nay đã được lắp đặt tại 2 TBA 220 kV là Thái Nguyên và Việt Trì, với mục đích đảm bảo chất lượng điện ở cuối nguồn đối với hệ thống tách lưới mua điện Trung Quốc (TQ). Trong giai đoạn thiếu điện (2008 - 2010), nhập khẩu điện TQ nhiều, các thiết bị SVC đã phát huy hiệu quả rất tốt trong việc giữ điện áp trong ngưỡng cho phép ở cao và thấp điểm. Vài năm gần đây (2014 - 2016), trước tình trạng điện áp biến thiên mạnh trên lưới 500 kV (minh họa như hình 13), Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia (EVNNPT) đã tiến hành nghiên cứu lắp đặt SVC tại 2 điểm là Ô Môn và Đà Nẵng [17]. Tuy nhiên, đến thời điểm này, hai dự án trên chưa thể trở thành hiện thực do chưa chứng minh được rõ nét hiệu quả kinh tế - kỹ thuật. 26 | HỘI NGHỊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐIỆN LỰC TOÀN QUỐC 2017 Bởi SVC có chi phí rất cao, nên trước khi nghĩ tới giải pháp SVC cần cân nhắc đến những phương pháp điều chỉnh điện áp đơn giản hơn và chi phí thấp hơn, đến từ phía nguồn điện và hệ thống phân phối. Mọi tổ máy phát điện trong hệ thống cần bắt buộc tham gia vào điều khiển công suất phản kháng một cách tích cực. Lưới điện phân phối cũng phải được tính toán bù công suất phản kháng sao cho ít ảnh hưởng nhất tới biến thiên điện áp trên lưới truyền tải. Khi cả hai phía nguồn - phụ tải đã thực hiện nghiêm túc việc tham gia điều khiển điện áp, cùng với các giải pháp đặt tụ - kháng bù ngang trên lưới mà LTT vẫn chưa đảm bảo được điện áp trong ngưỡng cho phép thì lúc này, giải pháp SVC mới nên được xem xét. SVC sẽ duy trì điện áp trên lưới điện giữ ở mức cho phép khi thay đổi các phương thức vận hành khác nhau, tạo sự linh hoạt cho lưới truyền tải. Hình 13: Các điểm quá áp trên lưới truyền tải 500-220 kV miền Trung năm 2016 Thiết bị tụ bù dọc có điều khiển TCSC gần đây được quan tâm khi xảy ra hiện tượng cộng hưởng dưới đồng bộ tại lưới điện miền Trung. Các bộ TCSC được chứng minh là có khả năng hạn chế được một số tần số cộng hưởng trong lưới điện, cải thiện chất lượng điện áp và nâng cao đặc tính ổn định chung của hệ thống. Tuy nhiên do chi phí đầu tư của các bộ TCSC còn cao, cùng với sự bất định về tiến độ của các nguồn nhiệt điện than Bắc Trung Bộ nên cần có thêm nhiều nghiên cứu về hiệu quả và tính khả thi của việc thay thế các bộ tụ bù dọc hiện nay bằng các bộ TCSC. Các máy biến áp dịch pha hiện còn xa lạ đối với HTĐ truyền tải của Việt Nam, nhưng lại khá phổ biến trên thế giới. Loại MBA này giúp điều tiết được dòng công suất tác dụng chảy trên lưới, nhất là các đoạn đường dây tải điện song song nhưng có khả năng tải khác nhau hoặc điện kháng khác nhau, giúp tránh quá tải các đoạn có giới hạn tải thấp. Điện áp phía cao áp của máy có thể lên đến 400-500 kV. Hình 14 minh họa một phần nhỏ sơ đồ nguyên lý lưới điện 400-275 kV của Anh trong đó có lắp đặt các MBA dịch pha quadrature booster. 0 50000 100000 150000 200000 250000 0 50 100 150 200 250 300 50 0k V Đà N ẵn g 50 0k V Đắ c N ôn g 50 0k V Dố c Sỏ i 50 0k V Pl ei ku 50 0k V Th ạn h M ỹ 22 0k V Đô ng Hà 22 0k V Đồ ng Hớ i 22 0k V N ha Tr an g 22 0k V Q uả ng N gã i Lần quá áp Thời gian vi phạm (phút) BÁO CÁO CHUNG | 27 Hình 14: Minh họa vị trí lắp đặt các MBA dịch pha trên lưới 400-275 kV của National Grid (Anh) Sự xuất hiện của các MBA dịch pha sẽ giúp tăng thêm giải pháp huy động nguồn, hoặc giải pháp cấp điện phụ tải, làm tăng tính linh hoạt của lưới truyền tải, rất đáng quan tâm áp dụng vào HTĐ Việt Nam trong thời gian tới. 6. KẾT LUẬN Hệ thống điện truyền tải Việt Nam đã phát điển đến quy mô khá lớn trên thế giới và bắt đầu phải đối mặt với nhiều vấn đề kỹ thuật khó khăn như: dòng ngắn mạch tăng cao, sự vận hành nặng nề và quá tải của thiết bị, điện áp thay đổi lớn giữa cao và thấp điểm, nằm ngoài ngưỡng cho phép, tiêu chí N-1 chưa đảm bảo, độ tin cậy cung cấp điện còn thấp. Một trong những giải pháp chiến lược để giải quyết các vấn đề trên là phát triển hệ thống truyền tải điện có độ linh hoạt cao. Tính linh hoạt của LTT thể hiện ở khả năng có thể đáp ứng được những sự thay đổi của phương thức vận hành và đối phó được với sự không chắc chắn của nguồn điện – phụ tải mà vẫn đảm bảo được các yêu cầu kỹ thuật với mức chi phí hợp lý, trong các khung thời gian khác nhau. Bài viết đã đề xuất một số giải pháp để cải thiện tính linh hoạt của LTT. Ở khâu quy hoạch, cần thiết phải xem xét lại tiêu chí mang tải theo hướng cho phép thiết kế với mức tải tính toán là 50% công suất định mức MBA thay vì 75%, sử dụng các TBA với quy mô 4 MBA, gam máy lớn và sơ đồ thanh cái linh hoạt (có từ 3 thanh cái trở lên). Đối với đường dây tải điện, cần xem xét sử dụng các loại dây dẫn tiết diện lớn được chuẩn hóa thay vì lựa chọn tiết diện theo tiêu chí mật độ dòng điện kinh tế Jkt như hiện nay. Tiêu chí thiết kế N-1 cần được hiểu đầy đủ hơn và có thể được thay thế bằng tiêu chí N-1-1. Về mặt thiết bị, cần lựa chọn thiết bị nhất thứ, nhị thứ có chất lượng tốt, hạn chế việc có quá nhiều chủng loại nguồn gốc xuất xứ gây khó khăn trong việc sửa chữa, bảo dưỡng vận hành, tự động hóa. Lập danh sách “đen” các nhà sản xuất cung cấp thiết bị MBA dịch pha 400 kV MBA dịch pha 400 kV MBA dịch pha 275 kV 28 | HỘI NGHỊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐIỆN LỰC TOÀN QUỐC 2017 kém chất lượng. Có thể xem xét sử dụng một số thiết bị FACTS trên lưới truyền tải 500-220 kV để nâng cao chất lượng điện năng như sử dụng SVC, TCSC và máy biến áp dịch pha. Do hệ thống điện Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn phát triển nhanh, còn chịu nhiều tác động của các yếu tố bất định như: tiến độ nguồn điện không như mong muốn, phụ tải phát triển cục bộ ngoài dự kiến, có thể dẫn tới nhiều vấn đề phát sinh trên lưới truyền tải như nghẽn mạch, điện áp không đảm bảo,... Xây dựng HTĐ truyền tải có tính linh hoạt cao sẽ là một giải pháp tốt để luôn chủ động đối phó với các vấn đề phát sinh, đảm bảo cung cấp đủ điện, an toàn, tin cậy cho phát triển kinh tế và ổn định đời sống nhân dân. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Viện Năng lượng (năm 2016) Chương trình đầu tư lưới truyền tải đảm bảo tiêu chí N-1 giai đoạn 2016 - 2020. Hà Nội. [2] Viện Năng lượng (năm 2000) Tổng sơ đồ phát triển Điện lực Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 có xét đến năm 2020. Bộ Công nghiệp, Hà Nội. [3] Viện Năng lượng (năm 2006) Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2006 - 2015 có xét đến năm 2025. Bộ Công nghiệp, Hà Nội. [4] Viện Năng lượng (năm 2011) Quy hoạch phát triển điện lực Quốc Gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến 2030. Hà Nội. [5] EVN (2017) Báo cáo tổng kết EVN năm 2016. Hà Nội. [6] World Bank (2016) Electric power consumption - World Bank Data. 2016. [7] Viện Năng lượng (năm 2017) Dự thảo báo cáo: Chiến lược phát triển Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2040. EVNNPT, Hà Nội. [8] TTg, "Quyết định 428/QĐ-TTg Phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030," MOIT, Ed., ed. Hà Nội: TTg, 2016. [9] IE (2015) Điều chỉnh quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến 2030. Hà Nội. [10] Juan Ma, Vera Silva, Régine Belhomme, Daniel S Kirschen, and Luis F Ochoa (2013) Evaluating and planning flexibility in sustainable power systems. Power and Energy Society General Meeting (PES), 2013 IEEE, pp. 1-11. [11] Danish Energy Agency (2005) Flexibility in the Power System - Danish and European experiences. Copenhagen. [12] Quốc hội, "Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực (Luật số 14/2012/QH13)," ed. Hà Nội, 2012. BÁO CÁO CHUNG | 29 [13] EGI; and Institute of Energy (2017) Assessment of Actual Situation in National Power Transmission System and Proposal of Solutions to Overcome the Existing. Bruxelles. [14] Viện Năng lượng (2016) Kế hoạch đầu tư phát triển lưới điện truyền tải Quốc gia năm 2016 có xét đến năm 2020. Hà Nội. [15] TEPCO, "TEPCO Power System Planning rule," ed. Tokyo: TEPCO, 2010. [16] EVN (2016) Nghị quyết về công tác tăng cường độ tin cậy, ổn định của hệ thống điện Việt Nam. Hà Nội. [17] PTC4 (2015) Dự án Lắp đặt thiết bị bù tĩnh trên lưới truyền tải (Giai đoạn 1). TP. Hồ Chí Minh.
File đính kèm:
- giai_phap_xay_dung_he_thong_dien_truyen_tai_linh_hoat.pdf