Factors influencing MNCs’ location decision
The significant growth of international investment in recent decades has led to the
creation of a number of theoretical schools explaining this phenomenon and trying to answer the
question of why multinational companies (MNCs) choose to locate their foreign direct investment
(FDI) at one location not others? What are other factors influencing that choice? Research in this
area is derived from two intertwin tradditions: the first is derived from the trade theory and
economics of industrial organization and the second is the internationalization process approach
associated with Uppsala model. However, both approaches have limitations and important bias.
The paper will review these two approaches, analyze and identify the limitations of each approach,
and give some suggestions for future research.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Factors influencing MNCs’ location decision
ảnh hưởng tới việc lựa chọn thông qua việc thuận lợi hóa hoặc cản trở hoạt địa điểm đầu tư theo hai cách [31]. Đầu tiên, động kinh tế của doanh nghiệp. Chính vì thế, doanh nghiệp sẽ quan tâm tới quốc gia mà họ bản chất và chất lượng của môi trường thể chế có kinh nghiệm hoạt động tích cực hơn là quốc nước chủ nhà ảnh hưởng tới địa điểm phân bố gia mà họ chưa có kinh nghiệm. Thứ hai, doanh FDI. Chính sách của chính phủ ở cả cấp quốc nghiệp giàu kinh nghiệm quốc tế ít quan tâm tới gia và cấp địa phương thường được xem là biến các thị trường gần, tương tự và quen thuộc. Khi số quan trọng ảnh hưởng đến việc lựa chọn địa kinh nghiệm tăng lên, doanh nghiệp sẽ quan phương phân bố FDI. Ở cấp độ địa phương, có tâm tới các thị trường mà trước đây bị nhận nhiều nghiên cứu khẳng định tác động tích cực thức là ít hấp dẫn do mức độ rủi ro cao. Điều và quan trọng của các chính sách của chính phủ quan trọng là Davidson (1980) đã phát hiện ra trong việc thu hút FDI. Hill và Munday (1992) rằng khi doanh nghiệp có nhiều kinh nghiệm cho rằng các động lực tài chính là một yếu tố hơn, việc lựa chọn địa điểm hoạt động ở nước N.T.T. Mai / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 115-123 121 ngoài càng thể hiện cách phản ứng hiệu quả đối khác biệt địa lý cấp quốc gia và thể chế, mà với cơ hội và điều kiện kinh tế toàn cầu. đánh giá quá thấp tính không đồng nhất giữa Pedersen và Petersen (2004) cho thấy “hiệu ứng các địa phương trong cùng một quốc gia. Trong sốc” (shock effect) của việc gia nhập thị trường khi đó, các nghiên cứu của các nhà địa lý kinh nước ngoài phát triển theo thời gian (đạt mức tế và kinh tế học đô thị đã chỉ ra một số nhân tố độ thấp nhất khi đã quen thuộc thị trường sau 8 liên quan đến sự khác biệt theo không gian giữa năm gia nhập), đồng thời ủng hộ “nghịch lý các địa phương, tuy nhiên lại không chú ý đến khoảng cách tâm lý” (psychic distance các đặc điểm của doanh nghiệp và sự phù hợp paradox), trong đó các nước lân cận lại tạo ra của động cơ đầu tư, nguồn lực hiện có và năng mức độ sốc cao [32]. Nghiên cứu Delphi duy lực của doanh nghiệp với việc lựa chọn địa nhất (MacCarthy và Atthirawong, 2003) tìm ra điểm đầu tư [36, 37]. Điều này cho thấy rằng các kết quả thông thường về động lực của cần có nghiên cứu liên ngành, đa lĩnh vực và doanh nghiệp trong việc lựa chọn địa điểm phân tích hợp các chỉ số ở các cấp độ phân tích khác tán hoạt động sản xuất [33]. Những kết quả này nhau cũng như xem xét cả hành vi của người ra gợi ý rằng vấn đề quá trình trong hoạt động quyết định. quốc tế hóa là vấn đề quan trọng. Học tập, sự Thứ hai, về phạm vi nghiên cứu, nhận thức tiếp biến và đồng biến văn hóa được cho là có ý về các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn địa nghĩa trong các bối cảnh khác nhau, đối với các điểm FDI của doanh nghiệp vẫn còn khoảng giám đốc khác nhau trong việc ra quyết định địa trống do vấn đề thiên lệch trong chọn mẫu. Các điểm FDI. công trình hiện có tập trung chủ yếu vào các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc và những kiến thức đã có rất khó áp dụng đối với 6. Hạn chế của nghiên cứu trước và một số các nước đang phát triển. Mỗi quốc gia và địa gợi mở phương có những đặc điểm khác biệt về thể chế Kết quả rà soát các nghiên cứu giải thích lý và điều kiện kinh tế vĩ mô, có thể ảnh hưởng do lựa chọn địa điểm phân bố FDI của MNCs đến việc lựa chọn quốc gia và địa phương để cho thấy nhận thức của chúng ta về lĩnh vực phân bố FDI. Chính vì thế, rất cần có các này vẫn còn chưa đầy đủ [2]. Do thiếu nguồn nghiên cứu tập trung vào những vùng, quốc gia dữ liệu cũng như nhiều vấn đề về mặt phương và khu vực ít được quan tâm để mở rộng kiến pháp luận, kết quả nghiên cứu vẫn còn nhiều thức và tăng tính hợp lệ của các nhân tố được mâu thuẫn. Mặc dù số lượng các công trình giả định ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn địa phân tích các nhân tố tác động đến lựa chọn địa điểm phân bố đầu tư của MNCs. điểm đầu tư nước ngoài là rất lớn, tuy nhiên vẫn Thứ ba, về nguồn số liệu sử dụng, cần lưu ý còn khoảng trống tri thức để tiếp tục nghiên rằng hiện nay đa số các nghiên cứu đều sử dụng cứu. Cụ thể là: số liệu thứ cấp. Mặc dù số liệu thứ cấp thường Thứ nhất, khung phân tích và lý thuyết về giải thích tốt hơn (nhưng không phải luôn luôn) các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn địa điều tra khảo sát do không bị thiên kiến xác nhận, điểm phân bố FDI chưa đầy đủ. Sự tích hợp các việc dựa vào số liệu thứ cấp được thu thập cho các dòng lý thuyết ở các lĩnh vực khác nhau khi mục tiêu nghiên cứu khác thường dấy lên những xem xét vị trí phân bổ FDI vẫn còn rất ít mặc lo ngại về tính hợp lệ của thang đo như nhóm tác dù quan sát thực tế có thể thấy cả đặc điểm của giả Nielsen và cộng sự (2017) đã phân tích [2]. khu vực địa lý cũng như đặc điểm của doanh Việc dựa quá nhiều vào số liệu chéo hoặc số liệu nghiệp FDI và người ra quyết định đều có khả chuỗi thời gian được gộp thành những giá trị duy năng ảnh hưởng đến quyết định địa điểm đầu tư nhất thường dẫn đến việc mất mát thông tin và [34, 35]. Các nghiên cứu gần đây không cung thất bại trong việc kiểm nghiệm mối quan hệ cấp đầy đủ hiểu biết về cơ chế làm cho doanh thực tế. nghiệp ưa chuộng một địa phương hơn so với Thứ tư, hầu như có rất ít nghiên cứu sử địa phương khác, và chủ yếu tập trung vào sự dụng thông tin và dữ liệu sơ cấp. Mặc dù việc 122 N.T.T. Mai / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 115-123 này rất khó khăn và tốn thời gian nhưng trách ra quyết định trong thực tế. Điều này rất quan nhiệm của nhà nghiên cứu là đảm bảo chất trọng bởi lẽ việc ra quyết định lựa chọn địa lượng dữ liệu thu thập được. Thêm nữa, thu điểm đầu tư là một quá trình theo bước và nhiều thập dữ liệu về hành vi đầu tư ra nước ngoài khi phi lý trí [4]. của các doanh nghiệp sẽ làm các nghiên cứu học thuật gần hơn với mô hình ra quyết định Tài liệu tham khảo trong thực tế. Điều này rất quan trọng bởi lẽ [1] I. Faeth, “Determinants of foreign direct việc ra quyết định lựa chọn địa điểm đầu tư là investment - A tale of nine theoretical models”, một quá trình theo bước và nhiều khi phi lý trí. Journal of Economic Surveys 23 (2009) 165-196. Phần lớn các nghiên cứu chỉ đề cập đến một số [2] B.B. Nielsen, C.G. Asmussen, C.D. Weatherall, lượng có hạn các lựa chọn trước khi ra quyết “The location choice of foreign direct định, và thông thường không xem xét đến vấn investments: Empirical evidence và methodological challenges”, Journal of World đề ưu tiên cũng như là quá trình ra quyết định Business 52 (2017) 62-82. theo bước. Chỉ có một số ít nghiên cứu xem xét [3] Nguyễn Văn Thắng, Giáo trình thực hành nghiên việc xếp hạng và thời gian gia nhập một thị cứu trong kinh tế và quản trị kinh doanh, NXB. trường cụ thể, thể hiện điều kiện quyết định thứ Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 2014. tự gia nhập. Hơn nữa, việc lựa chọn vị trí đầu tư [4] P.J. Buckley, T.M. Devinney, T.M. Louviere, “Do có thể là một quá trình theo chuỗi, chẳng hạn managers behave the way theory suggests? A choice- như Arregle và cộng sự (2009), Arregle và cộng theoretic examination of foreign direct investment location decision-making”, Journal of International sự (2013) bắt đầu bằng việc chọn quốc gia Business Studies 38 (7) (2007) 1069-1094. (hoặc một khu vực), sau đó là lưạ chọn vùng, [5] S.H. Hymer, International operations of national địa phương hoặc khu kinh tế. Việc thu thập dữ firms, Cambridge, MA: MIT Press, 1960. liệu thứ cấp không thể giúp nghiên cứu giải [6] J. Johanson, J.E. Vahlne, “The thích được quá trình này [38, 39]. Internationalization Process of the Firm-A Model Như vậy, có thể thấy hiện nay rất nhiều of Knowledge Development and Increasing Foreign Market Commitments”, Journal of trường phái lý thuyết cũng như phương pháp International Business Studies 8(1) (1977) 23-32. được sử dụng và phân tích ở các bối cảnh [7] E. Hörnell, J. Vahlne, F. Wiedersheim-Paul, nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, do thiếu Exports and foreign establishments, Stockholm: nguồn dữ liệu cũng như nhiều vấn đề về Almqvist & Wicksell, 1973. phương pháp luận, các kết quả nghiên cứu vẫn [8] J.E. Vahlne, F. Wiedersheim-Paul, “Economic còn nhiều mâu thuẫn. Mặc dù số lượng các distance: Model and empirical investigation”, Export and Foreign Establishments, 1973, pp. 81-159. công trình phân tích các nhân tố tác động tới [9] J.E. Vahlne, K.A. Nordström, “The quyết định lựa chọn phân bố vốn đầu tư nước internationalization process: Impact of ngoài là khá lớn, tuy nhiên vẫn còn khoảng competition and experience”, The International trống tri thức để tiếp tục nghiên cứu. Các Trade Journal 7 (5) (1993) 529-548. nghiên cứu tiếp theo có thể tập trung xem xét [10] Y. Kang, F. Jiang, “FDI location choice of các trường phái lý thuyết khác nhau và đề xuất Chinese multinationals in East and Southeast một khung khổ lý thuyết đầy đủ hơn về các Asia: Traditional economic factors and institutional perspective”, Journal of World nhân tố ở các cấp độ khác nhau; thực hiện Business 47 (1) (2012) 45-53. nghiên cứu ở bối cảnh mới là các nền kinh tế [11] B. Ramasamy, M. Yeung, S. Laforet, “China’s mới nổi, các nước đang phát triển...; sử dụng outward foreign direct investment: Location một mô hình nghiên cứu phù hợp để xử lý dữ choice and firm ownership”, Journal of World liệu đa cấp, phân cấp; đồng thời sử dụng mô Business 47 (1) (2012) 17-25. hình phân tích tác động không gian để đánh giá [12] Y. Kandogan, “Regional foreign direct investment potential of the states within the US”, Journal of sự phụ thuộc của các nhân tố ở cấp độ địa Economics and Business 64 (4) (2012) 306-322. phương. Việc thu thập dữ liệu về hành vi đầu tư [13] C.L. Rogers, C. Wu, “Employment by foreign ra nước ngoài của các doanh nghiệp này sẽ làm firms in the US: Do state incentives matter?”, các nghiên cứu học thuật gần hơn với mô hình N.T.T. Mai / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 115-123 123 Regional Science and Urban Economics 42 (4) of China’s Incentive Areas”, Journal of Urban (2012) 664-680. Economics 40 (1) (1996) 38-60. [14] G.G. Dess, S. Newport, A.M.A. Rasheed, [28] K.E. Meyer, H.V. Nguyen, “Foreign Investment “Configuration Research in Strategic Strategies and Sub-national Institutions in Emerging Management: Key Issues and Suggestions”, Markets: Evidence from Vietnam”, Journal of Journal of Management 19 (4) (1993) 775-795. Management Studies 42 (1) (2005) 63-93. [15] D.A. Kenny, Correlation and causality, New [29] E.G. Lim, “Determinants of, and the Relation York: Wiley, 1979. Between, Foreign Direct Investment and Growth; [16] G.J. Bobonis, H.J. Shatz, “Agglomeration, adjustment, A Summary of the Recent Literature: and state policies in the location of foreign direct International Monetary Fund”, Available at: investment in the United States”, The Review of https://econpapers.repec.org/RePEc:imf:imfwpa: Economics and Statistics 89 (1) (2007) 30-43. 01/175/, 2001. [17] H.H. Hoang, M. Goujon, “Determinants of [30] S. Li, S.H. Park, “Determinants of Locations of foreign direct investment in Vietnamese Foreign Direct Investment in China”, provinces: A spatial econometric analysis”, Post- Management and Organization Review 2 (1) Communist Economies 26 (1) (2014) 103-121. (2006) 95-119. [18] B. Esiyok, M. Ugur, “A spatial regression [31] W.H. Davidson, “The location of foreign direct approach to FDI in Vietnam: Province-level investment activity: Country characteristics and evidence”, The Singapore Economic Review, 62 experience effects”, Journal of International (02) (2017) 459-481. Business Studies 11 (2) (1980) 9-22. [19] B.B. Nielsen, S. Nielsen, “A multilevel approach [32] B. Petersen, T. Pedersen, “Coping with liability of to understanding the multinationality-performance foreignness: Different learning engagements of relationship”, The Past, Present and Future of entrant firms”, Journal of International International Business & Management: Emerald Management 8 (3) (2002) 339-350. Group Publishing Limited, 2010, pp. 527-557. [33] B. Ambos, “Foreign direct investment in industrial [20] R. Basile, D. Castellani, A. Zanfei, “Location research and development: A study of German choices of multinational firms in Europe: The role MNCs”, Research Policy 34 (4) (2005) 395-410. of EU cohesion policy”, Journal of International [34] J.I. Galan, J. Gonzalez-Benito, J.A. Zuñiga-Vincente, Economics 74 (2) (2008) 328-340. “Factors determining the location decisions of Spanish [21] S. Rasciute, E. Pentecost, B. Ferrett, “Firm MNEs: An analysis based on the investment heterogeneity in modelling foreign direct development path”, Journal of International Business investment location decisions”, Applied Studies 38 (6) (2007) 975-997. Economics 46 (12) (2014) 1350-1360. [35] L. Nachum, S. Zaheer, S. Gross, “Does it matter [22] J.L. Arregle, L. Hébert, P.W. Beamish, “Mode of where countries are? Proximity to knowledge, markets international entry: The advantages of multilevel and resources, and MNE location choices”, methods”, Management International Review 46 Management Science 54 (7) (2008) 1252-1265. (5) (2006) 597-618. [36] J.R. Markusen, A.J. Venables, D.E. Konan, K.H. [23] S. Hill, M. Munday, “The UK Regional Zhang, A unified treatment of horizontal direct Distribution of Foreign Direct Investment: investment, vertical direct investment, and the Analysis and Determinants”, Regional Studies, 26 pattern of trade in goods and services, National (6) (1992) 535-544. Bureau of Economic Research, 1996. [24] J. Taylor, “An analysis of the factors determining [37] E. McCann, “Urban Policy Mobilities and Global the geographical distribution of Japanese Circuits of Knowledge: Toward a Research manufacturing investment in the UK, 1984-91”, Agenda”, Annals of the Association of American Urban Studies 30 (7) (1993) 1209-1224. Geographers 101 (1) (2011) 107-130. [25] C.C. Coughlin, E. Segev, “Foreign Direct [38] J.L. Arregle, P.W. Beamish, L. Hébert, “The Investment in China: A Spatial Econometric Regional Dimension of MNEs' Foreign Subsidiary Study”, The World Economy 23 (1) (2000) 1-23. Localization”, Journal of International Business [26] D.P. Woodward, “Locational determinants of Studies 40 (1) (2009) 86-107. Japanese manufacturing start-ups in the United [39] J.L. Arregle, T.L. Miller, M.A. Hitt, P.W. States”, Southern Economic Journal 2 (1992) Beamish, “Do regions matter? An integrated 690-708. institutional and semiglobalization perspective on [27] K. Head, J. Ries, “Inter-City Competition for the internationalization of MNEs”, Strategic Foreign Investment: Static and Dynamic Effects Management Journal 34 (8) (2013) 910-934. P p
File đính kèm:
- factors_influencing_mncs_location_decision.pdf