Factors affecting the audit quality of financial statements of listed businesses

Abstract: Financial statements are written records that convey the business operations and

financial performance of a company, directly affecting investors' decisions. However, at present,

the awareness of investors or auditing firms is still limited in controlling the quality of audits.

Through quantitative research methods and multivariate regression analysis to measure the level of

influence of these factors, the article has found 5 factors affecting the audit quality of financial

statements of listed businesses which include (1) Auditing firm size, (2) In-depth skill of auditors,

(3) Quality control procedures at the audit firm, (4) Price of auditing, (5) Service range of the

auditing company. Then, the study made a number of recommendations for independent auditing

companies and related agencies to improve the audit quality of financial statements of listed

companies, at the same time, to find the development direction for the audit profession.

Factors affecting the audit quality of financial statements of listed businesses trang 1

Trang 1

Factors affecting the audit quality of financial statements of listed businesses trang 2

Trang 2

Factors affecting the audit quality of financial statements of listed businesses trang 3

Trang 3

Factors affecting the audit quality of financial statements of listed businesses trang 4

Trang 4

Factors affecting the audit quality of financial statements of listed businesses trang 5

Trang 5

Factors affecting the audit quality of financial statements of listed businesses trang 6

Trang 6

Factors affecting the audit quality of financial statements of listed businesses trang 7

Trang 7

Factors affecting the audit quality of financial statements of listed businesses trang 8

Trang 8

Factors affecting the audit quality of financial statements of listed businesses trang 9

Trang 9

Factors affecting the audit quality of financial statements of listed businesses trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 15 trang xuanhieu 10060
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Factors affecting the audit quality of financial statements of listed businesses", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Factors affecting the audit quality of financial statements of listed businesses

Factors affecting the audit quality of financial statements of listed businesses
iến độc lập đều nhỏ hơn 5% chứng tỏ 5 biến 
độc lập đều tác động có ý nghĩa lên biến phụ 
thuộc. Đồng nghĩa là 5 biến độc lập đều được 
chấp nhận. 
Từ đây, ta có mô hình hồi quy của biến phụ 
thuộc Chất lượng kiểm toán BCTC: 
CLKT = 0.426 + 0.220*QM + 0.212*CM 
+ 0.187 * KSCL + 0.141*PV + 0.118*GP 
F 
Bảng 8. Kết quả kiểm định giả thuyết về độ phù hợp của tổng thể mô hình 
ANOVAa 
Mô hình Tổng các bình phương Df 
Trung bình 
các bình 
phương 
F Sig. 
1 
Hồi quy 14.195 5 2.839 25.362 .000b 
Phần dư 12.314 110 .112 
Tổng 26.509 115 
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu trên SPSS 20. 
Bảng 9. Kết quả hồi quy tuyến tính 
Hệ số hồi quya 
Mô hình 
Hệ số hồi quy chưa 
chuẩn hóa 
Hệ số hồi 
quy chuẩn 
hóa T Sig. 
Thống kê đa cộng tuyến 
B 
Sai số 
chuẩn 
Beta 
Độ chấp 
nhận 
Hệ số phóng 
đại phương sai 
1 
(Hằng số) .426 .267 1.594 .114 
Thủ tục 
kiểm soát 
chất lượng 
.187 .040 .313 4.712 .000 .958 1.043 
Qui mô 
CTKT 
.220 .036 .413 6.170 .000 .941 1.062 
Mức độ 
chuyên sâu 
.212 .043 .341 4.946 .000 .887 1.128 
Phạm vi 
cung cấp 
dịch vụ 
.141 .037 .255 3.828 .000 .951 1.051 
Giá phí 
kiểm toán 
.118 .043 .194 2.735 .007 .840 1.190 
a. Biến phụ thuộc: Chất lượng kiểm toán BCTC. 
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu trên SPSS 20. 
T.T. Uyen / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 34-48 
45 
3. Hạn chế trong kiểm soát chất lượng kiểm 
toán báo cáo tài chính và giải pháp khắc 
phục các hạn chế 
3.1. Các hạn chế trong kiểm soát chất lượng 
kiểm toán báo cáo tài chính 
Theo kết quả mô hình và kết quả bảng khảo 
sát phát hiện các hạn chế còn tồn tại trong các 
công ty kiểm toán độc lập khi tham gia vào quá 
trình kiểm toán BCTC các DNNY như sau: 
Hạn chế về mặt quy mô công ty kiểm toán: 
Hạn chế lớn nhất trong phạm vi quy mô 
doanh nghiệp kiểm toán cần kể đến đó là việc 
thiếu nhân lực, đặc biệt là vào thời gian cao 
điểm của nghề kiểm toán từ tháng 1 đến hết 
tháng 3 hằng năm. Số lượng nhân sự không đủ 
đáp ứng khối lượng công việc, nhất là ở những 
công ty kiểm toán vừa và nhỏ dẫn đến việc các 
KTV thiếu kinh nghiệm và chưa đủ năng lực 
hiểu biết về ngành nghề kinh doanh của các 
khách hàng tham gia vào quá trình kiểm toán 
dẫn đến chất lượng kiểm toán BCTC không 
được đảm bào. Đa số nhân sự đoàn kiểm toán 
BCTC DNNY tại các công ty kiểm toán chỉ 
gồm 3 đến 4 người, một số nhóm sẽ lớn hơn 4 
người, các công việc có rủi ro cao tập trung cho 
những trưởng nhóm kiểm toán và trợ lý kiểm 
toán có kinh nghiệm lâu năm dẫn tới khối lượng 
công việc được phân chia không đồng đều và có 
rủi ro phát hiện cao. 
Hạn chế trong tổ chức kiểm soát chất lượng 
hoạt động kiểm toán BCTC: 
Hiện nay, công tác KSCL hoạt động kiểm 
toán BCTC nói chung và kiểm toán BCTC 
DNNY nói riêng còn có nhiều hạn chế. Bản 
thân các công ty kiểm toán cũng đã xây dựng 
các hệ thống chính sách và thủ tục KSCL kiểm 
toán BCTC tương đối đầy đủ và chặt chẽ, tuy 
nhiên, việc xây dựng này chỉ dừng lại ở mức 
hoàn thiện hồ sơ tài liệu mà chưa có ý nghĩa 
thực tiễn. Việc thực hiện hoạt động KSCL còn 
nhiều hạn chế, chưa hiệu quả và mang tính hình 
thức, đặc biệt là ở các công ty kiểm toán vừa 
và nhỏ. 
Hạn chế về mức độ chuyên sâu nghề nghiệp 
của các KTV: 
Theo thực tế khảo sát 100% các công ty 
kiểm toán nhỏ và vừa thực hiện thủ tục phân 
tích xu hướng, so sánh số liệu thực tế kỳ này 
với số liệu thực tế kỳ trước, điều này đồng 
nghĩa với việc các KTV ít thực hiện so sánh số 
liệu thực tế của DNNY với số liệu bình quân 
ngành của các doanh nghiệp đó. Các KTV cũng 
không sử dụng hoặc chỉ sử dụng rất hạn chế kỹ 
thuận phân tích tỷ suất và phân tích ước tính. 
Việc sử dụng kỹ thuật phân tích tại các công ty 
kiểm toán chỉ nhằm mục đích xác định phạm vi 
kiểm toán mà chưa giúp các KTV khoanh vùng 
trọng tâm kiểm toán để đưa ra những nhận định 
về khả năng xảy ra các sai phạm chủ yếu 
Nguyên nhân ckhảo sát 100% cá 
Thuyên nhân ckhảo sát 100% các công ty 
kiểm toán nhỏ và vừa t nguyên nhân khách 
quan như sau: 
Các công ty kihảo sát 100% các công ty 
kiểm toán nhỏ và vừa t nguyên nhân khách 
quan như sau:ớng, so sánh số liệu thực tế kỳ 
này với số 
Các KTV chưa chảo sát 100% các công ty 
kiểm toán nhỏ và vừa t nguyên nhân khách 
quan nhc ngoài công nhận trong điều kiện hội 
nhập hiện nay 
Do sKTV chưa chảo sát 100% các công ty 
kiểm toán nhỏ và vừa t nguyên nhân khá 
3.2. Giải pháp khắc phục 
Đối với các công ty kiểm toán độc lập 
Với qui mô và thủ tục kiểm soát chất lượng 
của công ty kiểm toán 
Do phần lớn ảnh hưởng thực tiễn của nhân 
tố này là do việc thiếu hụt nhân lực trong nội bộ 
các công ty kiểm toán độc lập, điều này thể hiện 
rõ nhất trong thởi gian cao điểm của kiểm toán. 
Tuy nhiên, việc tuyển dụng KTV từ độc lập từ 
bên ngoài công ty là rất khó khăn do sự cạnh 
tranh lớn giữa các doanh nghiệp kiểm toán 
đồng thời, việc chịu quá nhiều áp lực dẫn đến 
các KTV (đặc biệt là các nữ KTV) không quá 
mặn mà với nghề dẫn đến việc nghỉ việc sau 
một khoảng thời gian công tác. Điều này yêu 
cầu các công ty kiểm toán cần hoàn thiện và 
nâng cao quá trình quản trị nguồn nhân lực bao 
T.T. Uyen / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 34-48 
46 
gồm: Chính sách tuyển dụng hợp lý, hệ thống 
đãi ngộ và phúc lợi với nhân viên tốt. Trong đó, 
trước hết các công ty kiểm toán cần xây dựng 
những mức lương, thưởng phù hợp với năng lực 
của nhân viên, đồng thời cần tổ chức các hoạt 
động, chương trình nhằm nâng cao thể chất và 
tinh thần cho các kiểm toán viên trong công ty. 
Bên cạnh đó công tác đào tạo nhân viên nội bộ 
đóng một vai trò quan trọn trong công ty kiểm 
toán, đặc biệt từ mức “junior” lên mức “senior” 
để tránh tình trạng thiếu hụt nhân lực, cũng 
tránh các rủi ro liên quan đến việc các KTV 
chưa có kinh nghiệm gây ra sai sót ảnh hưởng 
đến chất lượng BCTC DNNY. 
Đối với các công ty kiểm toán, một trong 
những yếu tố quan trọng nhất quyết định uy tín 
của công ty đó là thủ tục kiểm soát chất lượng. 
Nhân tố này thể hiện phương pháp kiểm toán 
của KTV và công ty kiểm toán cũng như quy 
trình KSCL của công ty kiểm toán. Để đảm bảo 
nhân tố này, về phương pháp kiểm toán, các 
CTKT cần xây dựng quy trình kiểm toán phù 
hợp, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin 
trong quá trình kiểm toán, đồng thời khuyến 
khích các KTV có sự tương tác thích hợp với 
KTV nội bộ của DN khách hàng trong quá trình 
kiểm toán. Về quy trình kiểm soát chất lượng, 
các CTKT cần xây dựng một quy trình KSCL 
hiệu quả và thực hiện việc KSCL cho từng cuộc 
kiểm toán để đảm bảo chất lượng. Đồng thời, 
để đảm bảo yếu tố thời gian kiểm toán, các 
CTKT cần lập kế hoạch kiểm toán, và căn cứ 
vào độ phức tạp và khối lượng công việc của 
cuộc kiểm toán để xác định thời gian kiểm toán 
thích hợp. 
Với mức độ chuyên sâu nghề nghiệp 
của KTV 
Nhân tố này gồm các yếu tố nội tại thể hiện 
kinh nghiệm của KTV trong thực hiện công 
việc kiểm toán nói chung, sự am hiểu và kinh 
nghiệm kiểm toán của KTV đối với ngành nghề 
kinh doanh cụ thể của khách hàng kiểm toán 
nói riêng. Để đảm bảo điều này, đòi hỏi sự tự 
tích lũy kinh nghiệm và trau dồi kiến thức của 
chính các KTV trong quá trình làm việc. Hơn 
nữa, ngành nghề knh doanh của các DNNY rất 
đa dạng và phức tạp, đặc biệt là các công ty đa 
ngành, bởi vậy các KTV phải luôn tự tích lũy 
kinh nghiệm về từng lĩnh vực cụ thể để có thể 
đảm bảo kinh nghiệm cũng như phù hợp đối với 
từng lĩnh vực kinh doanh của khách hàng. Để 
đảm bảo về tính chuyên môn của KTV đòi hỏi 
sự chủ động học tập bồi dưỡng và cập nhật kiến 
thức của bản thân các KTV. Đồng nghĩa các 
công ty kiểm toán cần tổ chức thường xuyên 
các khóa đào tạo trong và ngoài nước để giúp 
các KTV có cơ hội cập nhật và nâng cao kiến 
thức, đảm bảo trình độ chuyên môn để có thể 
thực hiện tốt công việc kiểm toán. Không chỉ 
cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao 
nghiệp vụ cho các KTV mà các công ty kiểm 
toán cũng cần tạo điều kiện cho các KTV tham 
gia chứng chỉ hành nghề kiểm toán trong nước 
và quốc tế như ACCA, CPA Úc cũng như công 
tác nâng cao các kĩ năng quan trọng đối với 
ngành kiểm toán. Đồng thời, cũng cần tăng 
cường sử dụng ý kiến chuyên gia hoặc các KTV 
am hiểu về các lĩnh vực mà DNNY hoạt động 
nhằm đảm bảo chất lương kiểm toán. 
3.3. Khuyến nghị với các cơ quan chức năng và 
các đơn vị liên quan 
Để hoàn thiện tổ chức công tác kiểm toán 
BCTC DNNY của các công ty kiểm toán độc 
lập không chỉ cần sự nỗ lực cải thiện của các 
công ty này mà cũng cần tới sự tăng cường 
quản lý của các cơ quan chức năng và các tổ 
chức - đơn vị liên quan. Các tổ chức này có thể 
giúp nâng cao nhận thức của các KTV và các 
công ty kiểm toán về tầm quan trọng của tổ 
chức công tác kiểm toán trong việc nâng cao 
hiệu quả và chất lượng cuộc kiểm toán. Và 
thông qua bồi dưỡng, sinh hoạt chuyên môn, 
giao lưu trao đổi kinh nghiệm giữa các công ty 
kiểm toán độc lập hoặc hội nhóm KTV hỗ trợ 
nâng cao trình độ, kinh nghiệm nghề nghiệp và 
khả năng xét đoán của các KTV. Theo VACPA, 
trên thực tế, sức ép phải nộp và công khai 
BCTC năm đúng hạn, đặc biệt là thời hạn phải 
có Báo cáo kiểm toán để phục vụ Đại hội cổ 
đông dồn vào các tháng đầu năm đã làm ảnh 
hưởng đến chất lượng kiểm toán. Mặt khác, 
năng lực, trình độ và đạo đức nghề nghiệp của 
kiểm toán viên là những yếu tố mang tính quyết 
định chất lượng dịch vụ. Tuy nhiên, có trường 
T.T. Uyen / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 34-48 
47 
hợp do trình độ kiểm toán viên trực tiếp thực 
hiện hợp đồng kiểm toán còn chưa hiểu sâu về 
lĩnh vực, ngành nghề của khách hàng dẫn đến 
những sai sót nghề nghiệp. Thậm chí, mấy năm 
gần đây, một số DN kiểm toán đã mắc phải 
những sai phạm phải xử lý kỷ luật như khiển 
trách, cảnh cáo, kể cả việc đình chỉ hành nghề, 
không đủ điều kiện chấp thuận kiểm toán... 
Thực tế đó đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước, 
hội nghề nghiệp và các DN kiểm toán phải quan 
tâm và có các biện pháp cần thiết để tăng cường 
chất lượng dịch vụ nhằm bảo đảm sự trung thực 
của thông tin tài chính khi công khai. BCTC có 
ảnh hưởng rất lớn đến các quyết định của nhà 
đầu tư. Để nâng cao chất lượng kiểm toán 
BCTC của DN, nguyên Vụ trưởng Vụ Chế độ 
Kế toán và Kiểm toán (Bộ Tài chính) Đặng 
Thái Hùng lưu ý: Ngoài việc tiếp tục hoàn thiện 
các cơ chế, chính sách liên quan đến tài chính, 
kế toán, kiểm toán, cần làm rõ và có hình thức, 
chế tài kỷ luật, xử phạt thích đáng đối những vi 
phạm đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên 
và công ty kiểm toán. 
4. Kết luận 
Bằng phương pháp định tính kết hợp định 
lượng bài báo đã xây dựng mô hình 5 nhân tố 
tác động tới chất lượng kiểm toán báo cáo tài 
chính của các DNNY đó là quy mô công ty 
kiểm toán, mức độ chuyên sâu của các KTV, 
thủ tục kiểm soát chất lượng của công ty kiểm 
toán, giá phí kiểm toán và phạm vi cung cấp 
dịch vụ của công ty kiểm toán. Kết quả khảo sát 
cho thấy tất cả các KTV được khảo sát đều cho 
rằng cả 5 yếu tố này đều có ảnh hưởng đến chất 
lượng kiểm toán, từ kết quả mô hình hồi quy tác 
giả cũng kết luận cả 5 yếu tố trên đều ảnh 
hưởng đồng biến với chất lượng báo cáo 
kiểm toán. 
Dựa vào kết quả khảo sát và mô hình cùng 
với nhận định từ thực tiễn, tác giả đã nêu ra các 
hạn chế còn tồn tại và đưa ra các giải pháp 
nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán báo cáo 
tài chính của các DNNY theo các nhân tố ảnh 
hưởng. Bên cạnh việc đưa ra các giải pháp đối 
với các doanh nghiệp kiểm toán, các tác gải 
cũng đưa ra các giải pháp đối với Nhà nước và 
các Hiệp hội nghề nghiệp nhằm tạo điều kiện 
cho kiểm toán viên và các công ty trong ngành 
kiểm toán có khả năng hoàn thiện và đẩy năng 
lực nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán. 
Tài liệu tham khảo 
[1] A Framework for Audit Quality, Developed and 
approved by the International Auditing and 
Assurance Standards Board (IAASB) May 15 
2008, 2008. 
[2] Audit Quality in Australia, A Brief Overview of 
Recent Regulatory and Professional 
Developments, Australian Government, 2010. 
[3] Linda Elizabeth DeAngelo, Auditor size and audit 
quality, University of Pennsylvania, Philadelphia, 
P.A 19104, USA, 1981. 
[4] C.S Lennox, “Audit Quality and Auditor 
Size: An Evaluation of Reputation and Deep 
Pockets Hypotheses”, Journal of Business 
Finance and Accounting 26(7/8) (1999) 779-805. 
[5] S Shu, “Auditor Resignations: Clientele Effects 
and Legal Liability”, Journal of Accounting and 
Economics 29 (2000) 173-205. 
[6] R. Dye, “Auditing Standards, Legal Liability, 
and Auditor Wealth”, Journal of Political 
Economy 101 (1993) 877-914. 
[7] S.Kwon, “The Impact of Competition within 
the Client’s Industry on the Auditor Selection 
Decision”, Auditing: A Journal of Practice and 
Theory (Spring), 1996, pp. 53- 70. 
[8] D.M. Stein Simunic, “Production 
Differentiation in Auditing: A Study of Auditor 
Choice in the Market foe New Issues”, 
Canadian Certified General Accountants’ 
Research Foundation, 1987, pp. 15-20. 
[9] M.A. Wright Maletta, “Audit Evidence Planning: 
an Examination of the Industry Error 
Characteristics” , Auditing: A Journal of 
Practice and Theory (Spring), 1996, pp. 71- 86. 
[10] R.A.D. Neu Davidson, “A Note on the 
Association between Audit Firm Size and Audit 
Quality”, Contemporary Accounting Research, 
9 (1993) 479-488. 
[11] Jr. Gary, A.Giroux, Donald, R. Deis, 
“Determinants of Audit Quality in the Public 
Sector”, The Accounting Review (American 
Accounting Association) 3 (1992) 462-479. 
[12] S. Balsam, J. Krishnan, J.S. Yang, “Auditor 
Industry Specialization and Earnings Quality, 
T.T. Uyen / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 34-48 
48 
Auditing”, A Journal of Practice and Theory, 
22(2) (2003) 71- 97. 
[13] K. Boon, Crowe, S. McKinnon, J. Ross, 
“Compulsory Audit Tendering and Audit Fees: 
Evidence from Australian Local Government. 
International Journal of Auditing”, Accounting 
Research Journal 9(3) (2005) 221-241. 
[14] Jr. Gary, A. Giroux, Donald, R. Deis, 
“Determinants of Audit Quality in the Public 
Sector”, The Accounting Review (American 
Accounting Association) 3 (1992) 462-479. 
[15] S Kwon, “The Impact of Competition within 
the Client’s Industry on the Auditor Selection 
Decision”, Auditing: A Journal of Practice and 
Theory (Spring), 1996, pp 53-70. 
[16] R.A.D. Neu Davidson, “A Note on the 
Association between Audit Firm Size and Audit 
Quality”, Contemporary Accounting Research 
9 (1993) 479-488. 
[17] J.H. Scheiner, An Empirical Assessment of the 
Impact of SEC Nonaudit Service Disclosure 
Requirements on Independent Auditors and theirs 
Clients, Journal of Accounting Research 
22 (1984) 789 - 797. 
D.L.F.D. Beck Lindberg, “Before and After 
Enron: CPA’s Viewson Auditor Independence”, 
CPA Journal (LXXIV, 2002. 
H 
h 

File đính kèm:

  • pdffactors_affecting_the_audit_quality_of_financial_statements.pdf