Development of enterprises in Universities and policy implications for University governance reforms in Vietnam
Abstract: This paper focuses on analyzing and clarifying the theoretical basis for the
development of enterprises in universities and its relationship with university governance
in Vietnam. The status of enterprise development in the universities was also studied. On
this basis, the paper provides recommendations to accelerate the university governance
reform in the era of the fourth industrial revolution in higher education.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Development of enterprises in Universities and policy implications for University governance reforms in Vietnam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Development of enterprises in Universities and policy implications for University governance reforms in Vietnam
t ngữ phát triển “doanh nghiệp đại học” (University Entrepreneurship) để mô tả sự chuyển đổi quản trị cùng với hình thành doanh nghiệp trong trường đại học của MIT như kết quả của sự hợp tác và liên kết với các ngành công nghiệp tư nhân và các cơ quan chính phủ [7]. Clark (1998) đã khái niệm hóa việc tìm kiếm các phương pháp mới mà 5 trường đại học nghiên cứu của châu Âu đang tìm kiếm như sự “'chuyển đổi kinh doanh”' để giảm sự phụ thuộc nặng nề vào sự hỗ trợ và giám sát của chính phủ trong bối cảnh các tổ chức này cần sự chuyển đổi và đổi mới [6]. Có thể nói tinh thần kinh doanh, chuyển đổi kinh doanh hay đổi mới mô hình tổ chức, điều hành trong trường đại học là các tiền đề quan trọng cho PTDN trong trường đại học. Đây cũng là các nhân tố tự thân của các trường đại học trong tiến trình đổi mới quản trị theo hướng QTĐH tiên tiến. Yokoyama (2006) cho rằng các thuật ngữ như PTDN và “tinh thần kinh doanh” trong bối cảnh của các trường đại học không nhất thiết phải được hiểu với ý tưởng thu lợi nhuận và chấp nhận rủi ro, thậm chí là mang tính thương mại cao. Thay vào đó, nghiên cứu của Yokoyama (2006) tập trung vào thái độ của các trường đại học trong việc cố gắng tự chủ về chuyển giao công nghệ, tài chính hay nâng cao trách nhiệm của trường đại học và các nhà khoa học đối với xã hội nói chung. PTDN trong trường đại học dẫn đến sự thay đổi trong cơ chế quản lý và điều hành. Do đó, 5 hình thức phát triển từ thấp đến cao của mô hình trường đại học mà Yokoyama đưa ra có thể coi như kết quả trực tiếp của quá trình PTDN và tinh thần kinh doanh trong các trường đại học tiến tới mô hình QTĐH tiên tiến (Bảng 1). D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 86 y Bảng 1 Các hình thức phát triển của trường đại học Mức Hình thức Đặc điểm chính trong cơ chế tổ chức điều hành 1 Thí điểm mẫu (Ví dụ: Đại học Tokyo) - Tăng sự tự quyết định của trường đại học - Sự ra đời của văn hóa doanh nghiệp - Xem xét lại vấn đề quản trị, quản lý, lãnh đạo và tài trợ nội bộ trong trường đại học - Thiết lập kế hoạch chiến lược - Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường trách nhiệm trong trường đại học 2 Trường đại học theo định hướng doanh nghiệp (Đại học Waseda) - Mở rộng hoạt động kinh doanh - Chính sách theo định hướng thị trường - Xung đột giữa các giá trị học thuật và kinh doanh - Sự ra đời của tinh thần quản lý trong các hoạt động 3 Trường đại học định hướng kinh doanh non trẻ (Đại học Nottingham Trent) - Phụ thuộc vào tài chính công - Tự nhận dạng là một trường đại học mang tinh thần kinh doanh - Đóng góp vào nền kinh tế địa phương 4 Trường đại học doanh nghiệp thích ứng (Đại học Surrey) - Thể chế tự quyết định - Thu nhập đáng kể từ tài trợ bên ngoài - Cơ cấu quản trị và cấu trúc quản lý theo định hướng thị trường - Tích hợp cơ cấu doanh nghiệp, kinh doanh và học thuật 5 Hình thức lý tưởng - Tự chủ hoàn toàn và tự lực - Chia sẻ rủi ro và trách nhiệm giữa các tác nhân tham gia vào các hoạt động kinh doanh một cách rõ ràng - Tích hợp văn hóa kinh doanh, doanh nghiệp và văn hóa học thuật; văn hóa quản lý và phối hợp trong một tổ chức mà không có xung đột Nguồn: Yokoyama, 2006 [2]. Trường đại học theo định hướng mô hình QTĐH tiên tiến trước hết cần tiếp cận tinh thần kinh doanh và tăng cường hợp tác với doanh nghiệp. Sau đó, cần thay đổi phương thức tổ chức, quan tâm nhiều hơn đến quản lý, điều hành dựa trên hiệu quả các hoạt động. Cùng với các hoạt động mang tinh thần “kinh doanh” như vậy, việc thành lập các doanh nghiệp và sự hoạt động hiệu quả của các đơn vị dịch vụ hỗ trợ như văn phòng chuyển giao công nghệ (OTT) sẽ thúc đẩy chuyển giao tri thức từ các trường đại học tới doanh nghiệp [4]. Kết quả của các hoạt động và sự chuyển dịch này làm tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường, là cơ sở vững chắc cho thành công của quản trị đại học tiên tiến. Các trường đại học có mô hình tổ chức và phương thức quản trị tiên tiến luôn lấy mục tiêu thỏa mãn nhu cầu của người học và các bên liên quan thông qua việc triển khai có hiệu quả cao mọi hoạt động gắn với đổi mới sáng tạo. Kết quả nghiên cứu và khảo sát mang tính học thuật về mối liên hệ giữa PTDN trong trường đại học với các ngành công nghiệp và môi trường bên ngoài của Yusof và Jain (2010) cũng cho thấy vai trò cầu nối của các văn phòng chuyển giao công nghệ trong trường đại học là hết sức quan trọng [14]. Các trường đại học hoạt động theo mô hình QTĐH tiên tiến và sự hoạt động hiệu quả của các văn phòng này sẽ thúc đẩy sự hình thành các doanh nghiệp mới. Tiến trình hình thành doanh nghiệp trong trường đại học cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, các ngành công nghiệp và cộng đồng kinh doanh sẽ có tác động lan tỏa và thúc đẩy hoàn thiện môi trường bên ngoài. PTDN trong đại học cần một môi trường bên ngoài phù hợp - hệ sinh thái (bao gồm mạng lưới sáng tạo). Ngược lại, một hệ sinh thái hỗ trợ đổi mới sáng tạo xung quanh trường đại học lại thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi sang mô hình QTĐH tiên tiến của nhà trường (Hình 1). D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 87 Sự hình thành và hoạt động của các doanh nghiệp trong trường đại học có thể theo một số hình thức khác nhau, nhưng nhìn chung có liên quan chặt chẽ với chu kỳ của nghiên cứu - thử nghiệm - chuyển giao - ứng dụng thực tiễn và thương mại hóa. Các doanh nghiệp được thành lập thường gặp trong các đại học nhằm thương mại hóa sản phẩm KHCN bắt nguồn từ các kết quả và ý tưởng nghiên cứu - được gọi là doanh nghiệp “Spin-off”. Đặc trưng của các doanh nghiệp này là được hình thành và nuôi dưỡng trong trường đại học cùng vai trò quan trọng của các nhà khoa học, nhà sáng chế với các ý tưởng sáng tạo. Mặt khác, doanh nghiệp trong trường đại học thường được phát triển từ các sản phẩm hay ý tưởng sáng tạo, thường gọi là khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (startups). Các doanh nghiệp này thường có quy mô vừa và nhỏ để đối phó với nguy cơ rủi ro cao. Do vậy, startups là nét đặc trưng vốn có của các trường đại học trong thời đại ngày nay, bởi lẽ bản thân các trường đại học là môi trường lý tưởng cho phát triển khởi nghiệp gắn với đổi mới, sáng tạo [15]. Thuật ngữ PTDN cũng đã được áp dụng để nghiên cứu và giải quyết cụ thể đối với các hoạt động theo định hướng thị trường xảy ra trong giáo dục đại học hiện đại. Phân tích các hoạt động chuyển giao công nghệ của các trường đại học và các kết quả liên quan đến PTDN, các học giả như: Bercovitz và Feldman (2006), Bercovitz và cộng sự (2001), Feldman và cộng sự (2002), Owen-Smith (2005), Owen-Smith và Powell (2003), Colyvas và Powell (2007) đã xác định các hoạt động hướng ra thị trường bao gồm việc tạo ra các startups phục vụ đời sống xã hội là điển hình của PTDN trong trường đại học [17-22]. Bên cạnh đó, các hành vi và hoạt động của sinh viên theo định hướng thị trường và vai trò của sinh viên khởi nghiệp kinh doanh hay “doanh nhân sinh viên” được nhà nước bảo trợ đôi khi cũng được coi là phát triển tinh thần kinh doanh và PTDN trong đại học [23]. Ngoài mục tiêu lợi nhuận, phát triển kinh doanh và hình thành doanh nghiệp trong trường đại học có điểm khác biệt so với các doanh nghiệp và doanh nhân ở mục tiêu chuyển giao tri thức, chuyển giao công nghệ và ý tưởng mới ra thị trường. Đặc biệt, nó góp phần hoàn thiện mô hình tổ chức và điều hành theo hướng đổi mới QTĐH. Theo Bercovitz và Feldman (2002), các hoạt động PTDN trong trường đại học góp phần tích cực cho phát triển kinh tế tri thức và đóng góp cho tiến bộ xã hội [19]. Do vậy, các quốc gia thường có những chính sách hỗ trợ và thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp trong trường đại học, đồng thời tạo môi trường đổi mới và chuyển dịch sang mô hình QTĐH tiên tiến. 3. Phát triển doanh nghiệp trong đại học ở một số quốc gia tiêu biểu PTDN trong các trường đại học đã khá phổ biến trong nhiều thập niên qua trên thế giới. Gần đây nhất, một quốc gia mới nổi lên ở châu Á thành công nhất phải kể tới là Singapore. Sự chuyển đổi NUS sang mô hình QTĐH tiên tiến, gắn với PTDN và đổi mới sáng tạo được bắt đầu từ cuối thập niên 1990 khi quyết định thành lập doanh nghiệp đầu tiên trong đại học. Trong thời kỳ đầu, NUS thành lập văn phòng cấp phép về công nghệ. Văn phòng này không quá chú ý đến mục tiêu lợi nhuận cấp phép mà chú trọng mở rộng quan hệ, quảng bá các kết quả công nghệ của NUS trên thị trường bằng cách ưu tiên cấp bản quyền sáng chế cho các doanh nghiệp mới được thành lập. Bên cạnh đó, NUS cung cấp các thiết bị, cơ sở vật chất ở các vườn ươm công nghệ của trường, cấp vốn ban đầu cho các doanh nghiệp mới thành lập. Trung tâm khởi nghiệp được thành lập với nhiệm vụ mở rộng chương trình đào tạo khởi nghiệp cho sinh viên trong trường. Các doanh nghiệp của NUS thực hiện các chức năng tạo lập liên kết với các ngành công nghiệp, nghiên cứu thúc đẩy các hoạt động của trường theo định hướng doanh nghiệp. D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 88 f Hình 1. PTDN trong trường đại học. Nguồn: Rothaermel và cộng sự, 2007 [16]. Sự phát triển nhanh chóng các doanh nghiệp tại NUS đã thu được những kết quả cụ thể như: thúc đẩy đổi mới sáng tạo thông qua đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D), thu hút nhân tài; đẩy mạnh thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ thông qua hoạt động bằng sáng chế và cấp phép công nghệ; chỉ tính đến năm 2004, NUS đã ký 239 hợp đồng cấp phép bản quyền công nghệ. Đặc biệt, một tỷ lệ lớn các hợp đồng này được ký với các công ty do NUS thành lập (29%), số hợp đồng ký với các cơ quan thuộc Chính phủ và tư nhân chỉ chiếm 25%. Trong vòng 5 năm (từ 2000-2004) đã có 54 công ty được thành lập trong NUS [13]. Để thúc đẩy PTDN trong các trường đại học, Chính phủ Brazil đã cụ thể hóa quy định trong luật định về mô hình hoạt động của doanh nghiệp trong các trường đại học. Theo đó, Chính phủ có quy định mô hình doanh nghiệp lai (hybrid firm) hay còn gọi là “doanh nghiệp sơ sinh” được thành lập từ sự kết hợp giữa Môi trường bên ngoài bao gồm mạng lưới đổi mới sáng tạo Thành lập doanh nghiệp mới Năng suất của các OTT Trường đại học T ạo đ iều k iện th ú c đ ẩy D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 89 trường đại học và doanh nghiệp. Trong trường hợp kết hợp với doanh nghiệp tư nhân, Chính phủ cho phép các trường đại học đặt trụ sở của các công ty này trong trường hoặc trong các trung tâm ươm tạo. Các công ty mới thành lập được sự hỗ trợ tài chính một phần từ trường đại học và một phần từ các bộ, ngành liên quan. Kết quả từ chính sách ưu đãi trên đã thay đổi mô hình QTĐH, làm tăng nhanh các dự án hợp tác giữa các trường đại học và doanh nghiệp, tăng số lượng công bố quốc tế và các phát minh sáng chế ở Brazil. Đánh giá của Bộ Khoa học và Công nghệ Brazil năm 2014 cho thấy số lượng bài báo công bố quốc tế tăng mạnh: năm 2000 có 86 bài thì năm 2014 lên 744 bài, số phát minh sáng chế cũng tăng mạnh, tương ứng từ 20.639 bằng lên 33.395 bằng (tăng 61%) [24]. Ở một số quốc gia tiêu biểu khác như Mỹ, Anh, Canada, nghiên cứu của Đinh Văn Toàn (2018) cho thấy rõ ràng hơn vai trò quan trọng của chính phủ đối với PTDN và đổi mới mô hình QTĐH trong các trường đại học [25]: - Tại Mỹ, trong vòng 20 năm (1980-1999) kể từ khi Đạo luật Bayh-Dole về công ty Spin-off được phê chuẩn, trung bình mỗi năm có hơn 200 công ty được đăng ký thành lập trong các trường đại học, đóng góp 33,5 tỷ USD cho nền kinh tế Mỹ và tạo ra 280.000 việc làm. Từ năm 1982, Chính phủ Mỹ còn có chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, chi hơn 2 tỷ USD cho việc hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp Spin-off vào năm 2004, tính đến năm 2009 đã hỗ trợ cho 112.500 công ty với tổng kinh phí 26,9 tỷ USD. Ở cấp độ trường đại học, điểm nổi bật ở Mỹ là các đại học nghiên cứu đều có đơn vị đầu mối về kết nối và chuyển giao công nghệ (OTT) và hỗ trợ cho các giảng viên, sinh viên khởi nghiệp. Học viện MIT còn quy định rõ điều khoản về tỷ lệ phân chia lợi nhuận từ thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, trong đó dành 1/3 cho các nhà sáng chế. - Tại Vương quốc Anh, ở hầu hết các đại học danh tiếng thế giới (Oxford, Cambridge, London Metropolitan, Birmingham, Manchester, Cardiff và Trường Kinh doanh London) đều có các doanh nghiệp bên trong hoặc liên kết với doanh nghiệp trong đào tạo và nghiên cứu. Giai đoạn 1997-2000, trung bình có 95 doanh nghiệp Spin-off được hình thành hàng năm; năm 2001 là 248; giai đoạn 2001-2006 có 26 doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán với tổng giá trị trên 1,3 tỷ bảng Anh. Các trường đại học đã đóng góp 3,3 tỷ bảng Anh (khoảng 5,6 tỷ USD) cho nền kinh tế Anh trong các năm 2010-2011, trong đó lợi nhuận từ các công ty Spin-off mới thành lập là 2,1 tỷ bảng và tạo ra 18.000 việc làm. Sự phát triển nhanh chóng số lượng các công ty trong trường đại học xuất phát từ sự thay đổi chính sách của Chính phủ về thúc đẩy thành lập các doanh nghiệp trong trường đại học, nổi bật nhất là Luật Sở hữu sáng chế cho phép các công ty Spin-off được “phi tập trung hóa” và các trường đại học được chủ động đàm phán với người lao động về vấn đề sở hữu trí tuệ. Trong số các trường đại học tại Anh, Đại học Surrey được biết đến như một đơn vị có văn hóa khởi nghiệp và hoạt động PTDN sôi động vì đây là trường đứng thứ 2 trong số các trường đại học ít phụ thuộc nhất vào ngân sách từ Chính phủ. Một trong những điểm nổi bật trong hoạt động PTDN của Đại học Surrey là có nhiều hoạt động để hình thành doanh nghiệp và tích hợp các hoạt động đào tạo với khởi nghiệp. - Tại Canada, Chính phủ có những chính sách đặc thù và truyền thống thúc đẩy tận dụng lợi ích kinh tế từ các nghiên cứu khoa học, cấp kinh phí để thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu qua hình thức hỗ trợ thành lập và hoạt động của các công ty Spin-off trong các trường đại học. Trong năm 2004 đã có 93 công ty Spin-off niêm yết trên sàn chứng khoán, tạo ra việc làm cho gần 30.000 người và đạt doanh số 6,1 tỷ đô-la Canada (CAD). Ở cấp địa phương, các văn phòng đại diện cho Bộ Công nghiệp và các cơ quan cũng có nhiều chương trình thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thành lập các công ty khởi nghiệp công nghệ cao trong các trường đại học để thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu khoa học. Theo các nhà nghiên cứu chính sách thì mô hình hiệp lực giữa ba bên (còn gọi mô hình xoắn - Triple Helix) gồm: nhà nước - trường đại học - doanh nghiệp là mô hình mà các nước
File đính kèm:
- development_of_enterprises_in_universities_and_policy_implic.pdf