Đánh giá thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất cà phê vối tại Kon Tum
Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất cà phê vối Robusta tại Kon Tum. Kết quả nghiên cứu cho thấy năng suất cà phê vối nhân trung bình năm 2019 đạt 2,92 tấn/ha (GĐ1 đạt 3,55 tấn/ha, GĐ2 đạt 3,08 tấn/ha và GĐ3 đạt 2,14 tấn/ha). Năng suất tiềm năng trung bình của cà phê vối năm 2020 ước đạt GĐ1 là 3,54 tấn/ha, GĐ2 là 3,85 tấn/ha và GĐ3 là 2,43 tấn/ha. Lượng cây loại A trong các mô hình có tỷ lệ trung bình cao nhất ở GĐ3 là 54,83%, tiếp đến là GĐ2 là 49,89% và thấp nhất là GĐ1 là 46,50%. Đất trong các mô hình cà phê đa phần có pHKCl: 3,89 - 4,60 được xem là đất chua, hàm lượng Nts: 0,11 - 0,19% ở mức trung bình và khá, P2O5 dt: 4,08 - 12,37 mg/100 g ở mức trung bình và nghèo, K2O dt: 3,79 - 10,21 mg/100 g ở mức nghèo đến rất nghèo. Đa phần người dân sử dụng NPK (16: 16: 8) để bón cho các mô hình cà phê với lượng trung bình năm GĐ1 là 2,18 tấn/ha, GĐ2 là 1,80 tấn NPK/ha và GĐ3 là 1,24 tấn/ha cao hơn định mức tại Quyết định số 3702/QĐ-BNN-TT. Khí hậu chưa có ảnh hưởng rõ rệt tới năng suất cà phê vối. Để nâng cao năng suất các mô hình cà phê vối cần (1) Cải thiện dinh dưỡng trong đất gồm pHKCl bằng vôi, OM (%) bằng bón phân hữu cơ; (2) Gia tăng cây cà phê loại A và giảm cây loại C qua việc sử dụng phân bón cân đối hơn giữa đạm và kali vào giai đoạn giữa và cuối mùa mưa để mô hình đạt năng suất cao hơn
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất cà phê vối tại Kon Tum
1999 120 120 60 3 120 120 60 2,42 2 I-ĐN-Yến 1997 240 240 120 3 240 240 120 2,88 3 I-ĐL-Thanh 1999 288 288 144 3 80 80 40 1 368 368 184 3,30 4 I-ĐLa-Duy 1998 192 192 96 3 128 128 64 2 320 320 160 3,33 5 I-ĐN-Tiếu 1998 352 352 176 4 106 106 53 3 458 458 229 3,43 6 I-ĐHr-Chung 1998 381 381 190 4 76 76 38 2 457 457 228 3,81 7 I-ĐN-Ấn 1996 320 320 160 4 192 192 96 3 512 512 256 4,29 GĐ1 270 270 135 3 116 116 58 2 354 354 177 3,35 1 I-ĐHr-Lộc 2007 53 53 27 3 53 53 27 0,97 2 I-ĐHr-Sô 2008 160 160 80 2 160 160 80 1,33 3 I-ĐN-Tiếu 2005 352 352 176 4 352 352 176 2,60 4 I-ĐLa-Check 2009 160 160 80 3 107 107 53 2 266 266 133 2,75 5 I-ĐHr-Phong 2005 160 160 80 2 80 80 40 2 240 240 120 2,95 6 I-ĐN-Đông 2010 288 288 144 3 192 192 96 3 480 480 240 3,00 7 I-ĐN-Thắng 2008 284 284 142 4 192 192 96 3 476 476 238 3,17 8 II-ĐLo-Duy 2008 192 192 96 3 128 128 64 2 320 320 160 3,20 9 I-NW-Thuỷ 2003 366 288 280 3 122 26 33 1 488 314 313 4,24 GĐ2 224 215 123 3 137 121 64 2 315 296 165 2,70 1 I-ĐHr-Phương 2012 120 120 60 3 120 120 60 0,88 2 I-ĐN-Thơi 2016 89 89 44 3 89 89 44 1,22 3 I-ĐLa-Theck 2013 133 133 66 3 133 133 66 1,33 4 I-ĐHr-Huỳnh 2013 136 136 68 1 136 136 68 1,67 5 I-ĐLa-Hoài 2013 125 125 62 3 125 125 62 2,03 6 I-ĐN-Yến 2018 160 160 80 3 160 160 80 2,13 7 II-ĐLo-Duy 2012 192 192 96 3 128 128 64 2 320 320 160 2,22 8 I-ĐN-Ấn 2017 240 240 120 3 192 192 96 3 432 432 216 2,25 9 II-ĐKr-Bước 2015 150 150 75 2 150 150 75 2 300 300 150 3,00 10 I-NW-Dũng 2011 356 356 178 4 204 200 2 560 556 178 4,17 GĐ3 170 170 85 3 168 167 78 2 237 237 109 2,09 Ghi chú: Mã hộ: Mã huyện - mã xã - tên hộ; I: huyện Đăk Hà; II: huyện Đăk Glei; NW: xã Ngọc Wang; ĐN: xã Đăk Ngọc, ĐHr: xã Đăk Hring; ĐLa: xã Đăk La; ĐKr: xã Đăk Krong; Đlo: xã Đăk Long; ĐM: xã Đăk Môn. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 1 - TH¸NG 12/2020 134 Kết quả phỏng vấn cho thấy đa phần người dân sử dụng phân NPK (16: 16: 8) để bón thúc cho các mô hình cà phê, chỉ có một số ít sử dụng phân đơn trộn. Lý do sử dụng NPK được người dân cho là: (1) Sự tiện lợi do không phải tính lượng phân đơn khi trộn; (2) Các công ty đã sản xuất phân để bón cho từng loài cây trong đó có cây cà phê. Lượng phân NPK bón thúc vào các mô hình cà phê trung bình năm GĐ1 là 2,18 tấn/ha; GĐ2 là 1,80 tấn/ha và giai đoạn 3 là 1,24 tấn/ha. Việc sử dụng phân NPK với tỷ lệ như trên được một số chuyên gia cho là không phù hợp với cà phê kinh doanh, mất cân đối giữa đạm và kali, từ đó ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng cà phê nhân và năng suất các năm về sau. - Đánh giá lượng phân bón cho các mô hình cà phê vối: Kết quả điều tra thực tiễn cho thấy người dân hầu như không sử dụng phân hữu cơ mà chỉ dùng phân NPK, một số ít dùng phân đơn trộn để bón thúc cho cà phê. Lượng phân bón thúc trung bình năm (quy đổi ra N, P2O5 và K2O) như sau: GĐ1: Bón 354 kg N + 354 kg P2O5 + 177 kg K2O (tỷ lệ N, P2O5 và K2O là 2:2:1) và thu được 3,35 tấn nhân/ha; GĐ2: Bón 315 kg N + 296 kg P2O5 + 165 kg K2O (tỷ lệ N, P2O5 và K2O là 19: 18: 10) và thu được 2,70 tấn nhân/ha; GĐ3: Bón 245 kg N + 244 kg P2O5 + 112 kg K2O (tỷ lệ N, P2O5 và K2O là 22: 22: 10) và thu được 2,09 tấn nhân/ha. Lượng phân (N, P2O5 và K2O) được bón thúc cho cà phê có sự giao động khá lớn giữa các hộ bón nhiều và các hộ bón ít, cụ thể: GĐ1: Chênh lệch nhau gấp 4,27 lần; GĐ2: Chênh lệch 9,21 lần; GĐ3: Chênh lệch 6,29 lần. Thực tiễn cho thấy các hộ bón lượng phân (N, P2O5 và K2O) thấp có xu hướng thu được năng suất cà phê thấp và ngược lại trong chừng mực nào đó các hộ bón lượng phân lớn hơn với tỷ lệ giữa các thành phần (N, P2O5 và K2O) phù hợp thì năng suất có xu hướng cao hơn và ổn định hơn (Bảng 1, 2, 6 và Hình 1, 2 và 3). Hình 1. Mối liên hệ giữa phân bón và năng suất cà phê (GĐ1) Hình 2. Mối liên hệ giữa phân bón và năng suất cà phê (GĐ2) Hình 3. Mối liên hệ giữa phân bón và năng suất cà phê (GĐ3) Có một số gia đình cà phê đạt trên 4 tấn nhân/ha và ổn định qua các năm 2017, 2018, 2019 và NS(TN) 2020. Đặc điểm của các mô hình cà phê đó là được bón lượng phân (tính cho 1 ha) khá cao và đôi khi có sự khác biệt về tỷ lệ N, P2O5 và K2O so với các mô hình khác. Cụ thể (1) GĐ1 hộ số 7 bón 512 kg N + 512 kg P2O5 + 256 kg K2O (tỷ lệ N, P2O5 và K2O là 2: 2: 1) đạt năng suất trung bình qua 3 năm 4,29 tấn nhân/ha; (2) GĐ2 hộ số 9 bón 488 kg N + 314 kg P2O5 + 313 kg K2O (tỷ lệ N, P2O5 và K2O là 16: 10: 10) đạt năng suất trung bình là 4,24 tấn nhân/ha; và (3) GĐ3 hộ số 10 bón 560 kg N + 556 kg P2O5 + 178 kg K2O (tỷ lệ N, P2O5 và K2O là 31: 31: 10) đạt năng suất trung bình là 4,17 tấn nhân/ha. - Đánh giá về số lần bón phân trong các mô hình: Kết quả điều tra cho thấy người dân tại Kon Tum đang sử dụng phân (NPK) để bón thúc cho cà phê 1 - 7 lần/năm. Số lần bón phụ thuộc điều kiện kinh tế, sự hiểu biết và một phần chịu tác động bởi giá bán cà phê. Thời điểm và số lần bón cụ thể như sau: (1) Mùa mưa có 22/26 gia đình bón thúc 3 - 4 lần (chiếm 84,62%) và có 4/26 gia đình bón 1-2 lần (chiếm 15,38%); (2) Mùa khô có 15/26 gia đình bón thúc 1-3 lần (chiếm 57,69%) và có 11/26 gia đình không bón vào mùa khô (chiếm 42,31%). Lượng bón mỗi lần trong mùa mưa thường cao hơn lượng bón mỗi lần trong mùa khô. Các mô hình có bón thúc vào mùa khô thì năng suất có xu hướng cao hơn. Phân tích trên cho thấy để các mô hình đạt năng suất cao người trồng cà phê cần bón thúc phân thành nhiều lần. Trong đó mùa mưa là 3-4 lần và mùa khô là 1-3 lần. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 1 - TH¸NG 12/2020 135 3.3.3. Đánh giá ảnh hưởng của yếu tố khí hậu tới năng suất cà phê - Đánh giá diễn biến các chỉ số của yếu tố khí hậu giai đoạn 2010 - 2018 tại Kon Tum: Sử dụng nguồn dữ liệu [4] của tỉnh Kon Tum để phân tích diễn biến của yếu tố khí hậu với giả thuyết khí hậu năm 2010 làm chuẩn. Các chỉ số về khí hậu của các năm sẽ tăng hoặc giảm quanh đường chuẩn là năm 2010 (Hình 4, 5, 6, 7). Hình 4 cho thấy nhiệt độ trung bình tháng ở Kon Tum từ sau năm 2010 đang có có xu hướng giảm tháng 1 - 7 (đã giảm 2 - 3oC) và có xu hướng tăng ở tháng 8 - 11 hằng năm; hình 5 cho thấy số giờ nắng trung bình tháng có xu hướng giảm khoảng tháng 5 - 8 và có xu hướng tăng tháng 10 - 11 so với năm 2010. Biến động số giờ nắng giữa các năm có tháng lên đến 100 giờ (tháng 6 - 10); hình 6 cho thấy lượng mưa trung bình tháng có xu hướng cao hơn so với 2010. Lượng mưa cũng có diễn biến phức tạp giữa các tháng và các năm; hình 7 cho thấy độ ẩm cũng có diễn biến thất thường giữa các năm. Vì vậy, các chỉ số về khí hậu đều có thể ảnh hưởng tới năng suất của cây cà phê qua các năm. Hình 4. Diễn biến về nhiệt độ trung bình so với năm 2010 Hình 5. Diễn biến số giờ nắng trung bình so với năm 2010 Hình 6. Diễn biến về lượng mưa trung bình so với năm 2010 Hình 7. Diễn biến về độ ẩm trung bình so với năm 2010 - Đánh giá ảnh hưởng của khí hậu đến năng suất cà phê vối tại Kon Tum: Sử dụng “phép kiểm tra phi tham số” cho trường hợp nhiều mẫu liên hệ với tiêu chuẩn Friedman để so sánh năng suất cà phê trong các năm 2017, 2018 và 2019 (Bảng 1). Kết quả phân tích thể hiện (Hạng trung bình N-2017 = 1,67; N-2018 = 2,26; N-2019 = 2,07) và χ2 > 0,05 chưa cho thấy sự khác nhau rõ rệt về năng suất giữa các năm. Kết quả này có thể do dữ liệu so sánh giữa các năm quá gần nhau thêm vào đó là việc sử dụng thiết bị đo lường không đồng nhất. Tuy nhiên, với xu hướng nhiệt độ trung bình tháng và số giờ nắng đang có xu hướng giảm tháng 1 - 7 và tăng tháng 7 - 12 thì về mặt lâu dài cần có giải pháp để các mô hình cà phê thích ứng với biến đổi khí hậu (trồng cây có chu kỳ sinh trưởng sau tháng 7 để giảm thiểu nhiệt độ và số giờ nắng nếu các yếu tố này gây bất lợi cho cà phê). Ngoài ra, lượng mưa và độ ẩm biến động khá thất thường qua các năm vì vậy cần có hệ thống tưới, tiêu dự phòng để cung cấp nước cho cây khi lượng mưa không đáp ứng được sinh trưởng cho cây và hoặc thoát nước trong trường hợp mưa kéo dài. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 1 - TH¸NG 12/2020 136 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 4.1. Kết luận Năng suất cà phê trong các mô hình cà phê vối tại Kon Tum đạt trung bình chung năm 2019 là 2,92 tấn nhân/ha (trong đó GĐ1 đạt 3,55 tấn/ha, GĐ2 đạt 3,08 tấn/ha và GĐ3 đạt 2,14 tấn/ha). Năng suất tiềm năng năm 2020 đạt trung bình 3,28 tấn nhân/ha (trong đó GĐ2 là 3,85 tấn/ha, tiếp đến là GĐ1 đạt 3,54 tấn/ha và thấp nhất GĐ3 là 2,43 tấn/ha). Năng suất cà phê vối trồng GĐ2 có xu hướng tăng, trong khi cà phê trồng GĐ1 và GĐ3 có xu hướng giảm. Các mô hình cà phê vối có tỷ lệ cây loại A thấp, cụ thể: GĐ3 có tỷ lệ cây loại A cao nhất cũng chỉ đạt 54,83%, tiếp đến là GĐ2 là 49,89% và thấp nhất là GĐ1 với 46,50%. Đối với đất có thể khẳng định đất ở đây đa phần là đất chua (pHKCl: 3,89 - 4,60) có hàm lượng pHKCl thấp hơn ngưỡng phù hợp cho sinh trưởng của cà phê vối, hàm lượng Nts (%): 0,11 - 0,19% ở mức trung bình và khá, lân dễ tiêu P2O5: 4,08 - 12,37 mg/100 g được xem ở mức trung bình và nghèo và K2O: 3,79 - 10,21 mg/100 g ở mức nghèo đến rất nghèo. Đối với việc sử dụng phân bón, người dân đang bón thúc vào các mô hình cà phê lượng (N, P2O5 và K2O) trung bình theo nhóm tuổi cụ thể như sau (1) GĐ1: 354 kg N + 354 kg P2O5 + 177 kg K2O; (2) GĐ2: 315 kg N + 296 kg P2O5 + 165 kg K2O; và (3) GĐ3: 245 kg N + 244 kg P2O5 + 112 kg K2O. Mùa mưa có tới 84,62% số hộ gia đình bón thúc cho các mô hình cà phê 3 - 4 lần và số còn lại bón ít hơn 3 lần, trong khi mùa khô chỉ có 57% số hộ bón thúc cho cà phê (số lần bón 1-3 lần). Khí hậu chưa có ảnh hưởng rõ rệt tới năng suất cà phê vối tại Kon Tum. 4.2. Khuyến nghị Để nâng cao năng suất cà phê các hộ gia đình nên: (1) sử dụng các loại phân (phân đạm, phân lân) để thúc đẩy sự phát triển thân cây, cành dự trữ và đốt dự trữ; (2) ghép hoặc trồng thay thế các cây loại C bằng giống mới; (3) giảm mức độ chua của đất qua việc bón thêm vôi với lượng 800 kg/ha cho chu kỳ 2 năm; (4) gia tăng hàm lượng OM (%) bằng việc bón khoảng 15-20 tấn phân chuồng/ha với chu kỳ bón 3 năm một lần; (5) cải thiện hàm lượng lân dễ tiêu (P2O5 dt) và kali (K2O dt) đang ở mức nghèo; (6) bón thúc cho các mô hình 3-4 lần vào mùa mưa và 1-3 lần vào mùa khô. Ngoài ra, người dân cũng cần có hệ thống tưới tiêu dự phòng để cung cấp nước vào thời điểm lượng mưa và độ ẩm gây bất lợi cho các mô hình cà phê. Đa dạng hoá cây trồng đặc biệt là các cây đa mục đích vừa có tác dụng giúp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu vừa cho sản phẩm có thể tiêu thụ trên thị trường nhằm gia tăng nguồn thu. LỜI CẢM ƠN Bài báo này sử dụng một phần kết quả của dự án sản xuất thử nghiệm “Xây dựng mô hình nông lâm kết hợp có hiệu quả cao, tạo sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số tại Đắk Lắk và Kon Tum” thuộc Chương trình khoa học và công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020, do Viện Nghiên cứu Lâm sinh chủ trì thực hiện từ 2019 đến năm 2020. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Nông nghiệp và PTNT (2016). Quyết định số 2085/QĐ-BNN-TT ngày 31 tháng 5 năm 2016 Ban hành Quy trình tái canh cà phê vối. 2. Bộ Nông nghiệp và PTNT (2018). Quyết định số 3702/QĐ-BNN-TT ngày 24 tháng 9 năm 2018 Ban hành Quy trình trồng xen cây hồ tiêu, cây bơ, cây sầu riêng trong vườn cà phê vối. 3. Lê Văn Căn (1978). Giáo trình nông hóa. Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội. 4. Cục Thống kê Kon Tum (2018). Niên giám Thống kê. 5. Trần Văn Khởi, Lê Văn Đức, Đặng Bá Đàn, Nguyễn Văn Thường, Đào Thị Lan Hoa, Đinh Thị Lã Chúc, Nguyễn Viết Khoa (2018). Kỹ thuật sản xuất cà phê vối bền vững và tái canh cà phê vối. Bộ tài liệu đào tạo giảng viên (TOT) về sản xuất cà phê vối bền vững. 201 trang. 6. Hoàng Thị Nhung, Nguyễn Thanh Sơn (2019). Báo cáo kết quả điều tra, đánh giá các mô hình NLKH đã có trên địa bàn tỉnh Kon Tum. Viện Nghiên cứu Lâm sinh. 7. Oniani OF (1964). Determination of soil phosphorus and potassium in the same solution of Krasnozem and podzolic soils in Georgia. Agrojima 6: 25. 8. Tổng cục Thống kê (2019). Niên giám Thống kê. 9. Viện Thổ nhưỡng Nông hóa (2019). Báo cáo cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc đăng ký chỉ dẫn KHOA HỌC CÔNG NGHỆ N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 1 - TH¸NG 12/2020 137 địa lý “Đăk Hà” cho sản phẩm cà phê Đăk Hà của huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum. Dự án Xây dựng chỉ dẫn địa lý "Đăk Hà" cho cà phê của huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum. 10. phe-bid1.html. 11. dat-nuoc-vao-xuan/phat-trien-thi-truong-xuat-khau-ca- phe-viet-nam-nam-2020-546946.html. 12. Hội Khoa học Đất Việt Nam (2000). Đất Việt Nam. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 412 trang. STATUS ASSESSMENT AND FACTORS AFFECTING TO ROBUSTA COFFEE PRODUCTIVITY IN KON TUM PROVINCE Hoang Thi Nhung1, Nguyen Thanh Son1*, Pham Dinh Sam1, Vu Tien Lam1 1Silviculture Research Institute Summary The article is the research results of current status and factors affecting Robusta coffee yield in Kon Tum. The assessment results showed that the average yield of peeled and dried Robusta coffee reached 2.92 tons/ ha in 2019 (GD1 reached 3.55 tons/ha, GD2 reached 3.08 tons/ha and GD3 reached 2.14 tons/ha). The average annual potential yield of Robusta coffee in 2020 is estimated at GD1 coffee is 3.54 tons/ha, GD2 is 3.85 tons/ha and coffee GD3 is 2.43 tons/ha. The amount of quality A trees in the Robusta coffee models has the highest average in GD3 of 54.83%, followed by GD2 at 49.89% and lowest with GD1 at 46.50%. Soil in the coffee models is mostly acidic soil (pHHCl: 3.89 - 4.60), with nitrogen content (Nts: 0.11 - 0.19%) at a range of medium and fair level, with phosphorus content (P2O5: 4.08 - 12.37 mg/100 g) in medium and poor level, easily digestible potassium (K2O dt: 3.79 - 10.21 mg / 100 gam) at poor to very poor. Most of the people use NPK (16: 16: 8) to fertilize coffee models, the average annual amount of fertilization with GĐ1 is 2.18 tons/ha, GĐ2 is 1.80 tons/ha and GĐ3 is 1.24 tons/ha, higher than the norm in Decision No.3702/QD-BNN- TT. Climate has not had a clear effect on Robusta coffee yield. To improve productivity for Robusta coffee models, it is necessary to (1) Improve soil nutrition including pHKCl with lime powder, OM (%) by organic fertilizer, etc. (2) Increasing the number of coffee trees with quality (type A) and reducing the number trees with quality (type C) by using more balanced fertilizers between nitrogen and potassium in the mid- and late rainy season to achieve higher yields. Keywords: Coffee productivity, Robusta coffee, influencing factors, Kon Tum province. Người phản biện: TS. Trương Hồng Ngày nhận bài: 9/10/2020 Ngày thông qua phản biện: 11/11/2020 Ngày duyệt đăng: 18/11/2020
File đính kèm:
- danh_gia_thuc_trang_va_cac_yeu_to_anh_huong_den_nang_suat_ca.pdf