Cộng đồng người Việt ở Khăm Muộn (Lào) - Cầu nối của quan hệ hợp tác hữu nghị Quảng Bình - Khăm Muộn
Cộng đồng người Việt có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, xã hội của tỉnh Khăm Muộn (Lào). Trong
nửa đầu thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân, khá đông người Việt ở Quảng Bình đã sang Khăm Muộn
(Lào) trú ngụ và dần ổn định cuộc sống. Tại đây, họ lập nên các làng bản và tổ chức Hội Việt kiều tỉnh
Khăm Muộn, từ đó có nhiều đóng góp trong việc thúc đẩy quan hệ hợp tác hai tỉnh Quảng Bình và
Khăm Muộn cũng như mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, góp phần vào việc bảo lưu văn hóa truyền
thống, hòa nhập văn hóa của cộng đồng người Việt vào xã hội Lào.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Cộng đồng người Việt ở Khăm Muộn (Lào) - Cầu nối của quan hệ hợp tác hữu nghị Quảng Bình - Khăm Muộn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cộng đồng người Việt ở Khăm Muộn (Lào) - Cầu nối của quan hệ hợp tác hữu nghị Quảng Bình - Khăm Muộn
nhất là người Việt Nam khi đến Thà Khẹt nhắc là khách sạn Mê Kông. Đây là một trong những điểm dừng chân quen thuộc với những đoàn khách từ Việt Nam sang. Khách sạn nằm bên bờ sông Mê Kông, gần với các điểm tham quan du lịch, có đội ngũ nhân viên người Lào và người Việt có thể giao dịch được các ngôn ngữ Lào, Việt, Anh - một lợi thế giúp cho việc kinh doanh hiệu quả hơn. Hiện nay, nhiều Việt kiều ở Khăm Muộn đã và đang tham gia một số dự án phát triển du lịch trong khuôn khổ Tiểu vùng sông Mê Kông với tiêu đề “ba quốc gia, bảy thành phố” (Việt Nam, Lào, Thái Lan). Trong lĩnh vực nông - công nghiệp, người Việt tại Khăm Muộn cũng tiến hành các hoạt động kinh tế tương đối hiệu quả. Về nông nghiệp, tại Khăm Muộn chỉ có bộ phận người Việt ở làng Xiềng Vang (huyện Noong Bốc) - còn gọi với tên Làng Việt kiều (khoảng 30% dân số) vẫn duy trì và phát triển hoạt động kinh tế nông nghiệp. Trước năm 1993, do luật định của Chính phủ Lào không cho phép người nước ngoài cư trú ở Lào được sở hữu ruộng đất, nên người Việt ở đây phải thuê đất của người Lào để làm ruộng. Từ sau năm 1993, với những thay đổi trong chính sách của Nhà nước Lào về vấn đề dân nhập cư, cộng đồng người Việt ở làng Xiềng Vang được nhập quốc tịch Lào, điều này đã khuyến khích tinh thần hăng hái sản xuất của cộng đồng cư dân Việt tại đây. Cuộc sống của cư dân làng Việt kiều ngày một ổn định. Tuy nhiên, với số hộ gia đình làm nông nghiệp tương đối ít, nông nghiệp không trở thành hoạt động kinh tế chủ đạo của cộng đồng người Việt tại đây. Về thủ công nghiệp, người Việt tại Khăm Muộn thành thạo nhiều nghề thủ công khác nhau, phần lớn những nghề mang tính gia truyền như mộc, rèn, gò hàn, sửa chữa máy móc, v.v. Những nghề thủ SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 74 (02/2021) 44 công này đưa lại nguồn thu đáng kể cho các gia đình người Việt tại đây. Đặc biệt, nghề làm bánh gai và sợi phở của người Việt ở làng Xiềng Vang khá nổi tiếng. Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Vân - một trong những người lớn tuổi ở làng thì nghề này xuất phát từ cư dân Quảng Bình sang (Tư liệu điền dã của tác giả tại Khăm Muộn tháng 4/2019). Nhiều bạn trẻ và Meksavanh - một học sinh Lào từng tham gia học tập tại Việt Nam, hiện làm việc tại nhà lưu niệm Hồ Chí Minh tại Xiềng Vang nói rằng “Ai sang Khăm Muộn mà không được ăn bánh gai có nghĩa là chưa đến Khăm Muộn” (Tư liệu điền dã của tác giả tại Khăm Muộn tháng 4/2019). Có thể thấy, những hoạt động kinh tế của người Việt tại Khăm Muộn khá phong phú về ngành nghề. Có được những hoạt động kinh tế phong phú và đa dạng, người Việt tại Khăm Muộn gặp nhiều thuận lợi, đó là sự quan tâm và tạo điều kiện từ Nhà nước Lào, sự gần gũi trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của cộng đồng cư dân hai dân tộc Việt - Lào giúp người Việt sớm thích nghi và hội nhập vào đời sống kinh tế tại vùng đất mới. Đồng thời, những hoạt động nói trên đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo đời sống của cộng đồng cư dân Việt tại Khăm Muộn và làm thay đổi diện mạo bức tranh kinh tế truyền thống của Lào. Một số dự án kinh tế của người Việt trên đất Khăm Muộn đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho chính người dân Lào tại đây. Thông qua các hoạt động kinh tế, sự gần gũi và hiểu biết giữa nhân dân các địa phương Quảng Bình - Khăm Muộn được tăng cường. Đây là điều kiện thuận lợi để chính quyền hai tỉnh Quảng Bình và Khăm Muộn có thể đưa ra các chính sách phù hợp, thúc đẩy sự hợp tác hơn nữa trên lĩnh vực kinh tế trong giai đoạn mới hiện nay. 2.2. Hoạt động văn hóa - xã hội của cộng đồng người Việt ở Khăm Muộn Sự ra đời và hoạt động tích cực của Hội Việt kiều có ý nghĩa to lớn trong việc thúc đẩy và phát triển các hoạt động văn hóa - xã hội của cộng đồng người Việt tại Khăm Muộn cũng như ở Lào nói chung. Dưới sự lãnh đạo và tổ chức của Hội, các hội viên được thường xuyên tham gia những sinh hoạt xã hội mang tính dân tộc trong cộng đồng. Đặc biệt, Hội còn giúp cộng đồng Việt kiều nhận thức được nhiệm vụ quan trọng của từng thành viên trong việc phát huy tình đoàn kết, giúp đỡ, thương yêu nhau, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, nêu cao tinh thần yêu nước và không ngừng hướng về quê hương. Năm 1982, với sự chấp thuận của chính quyền sở tại, Hội đã lãnh đạo cộng đồng người Việt tại Khăm Muộn xây dựng một trường tiểu học, số lượng ban đầu chỉ gồm 2 lớp có 30 học sinh. Theo lời ông Trần Văn Thọ, “Hồi đó các gia đình còn nghèo lắm nhưng khi nói đến việc mở trường dạy Tiếng Việt thì ai cũng háo hức và nhiệt tình ủng hộ. Nhà nào khá giả thì góp tiền vàng, khó khăn thì góp công, góp gạo” (Tư liệu điền dã của tác giả tại Khăm Muộn tháng 4/2019). Dù còn nhiều khó khăn vất vả, nhưng sự ủng hộ và đóng góp của những cư dân người Việt xa xứ để thành lập nên Trường Tiểu học Việt kiều Thà Khẹt (nay đổi tên là Thống Nhất) là một nỗ lực rất lớn, chứng minh rằng dù ở bất cứ đâu, người Việt luôn có ý thức gìn giữ truyền thống văn hóa, hướng về cội nguồn. Việc giữ gìn truyền thống văn hóa của dân tộc được thể hiện trước hết về ngôn ngữ, tiếng Việt trong cộng đồng người Việt ở Lào. Sau thời gian dài xây LẠI THỊ HƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 45 dựng và phát triển, cùng với sự vững mạnh của Hội Việt kiều Khăm Muộn, tính đến năm học 2018-2019, số lượng học sinh theo học tại ngôi trường này lên đến hơn 500 học sinh (Tư liệu điền dã của tác giả tại Khăm Muộn tháng 4/2019). Mặt khác, từ sau ngày tỉnh Quảng Bình được tái lập (31/7/1989) và việc Quảng Bình kết nghĩa với Khăm Muộn đã khiến cho những hoạt động đối ngoại hữu nghị giữa hai tỉnh được đẩy mạnh. Một trong những sợi dây gắn kết tình hữu nghị giữa hai nước Việt - Lào cũng như hai tỉnh Quảng Bình - Khăm Muộn chính là sự hợp tác trong lĩnh vực giáo dục, đó là việc giúp cho tỉnh bạn đào tạo đội ngũ cán bộ có chất lượng. Cùng với Trường Tiểu học Thống nhất, ở Khăm Muộn còn có Trường Hữu nghị Quảng Bình - Khăm Muộn (được khởi công xây dựng từ năm 2010). Đây là một trong những cơ sở ghi dấu ấn cho mối quan hệ hữu nghị hợp tác tác giữa hai tỉnh Quảng Bình và Khăm Muộn. Ngoài việc cử giáo viên sang dạy Tiếng Việt tại Trường Tiểu học Thống Nhất, tỉnh Quảng Bình còn có các chính sách hỗ trợ và giúp đỡ tỉnh Khăm Muộn trong việc xây dựng Trường Hữu nghị Quảng Bình - Khăm Muộn với tổng kinh phí ban đầu hơn 9 tỷ đồng. Trong năm 2016 và 2017, tỉnh Quảng Bình đã hỗ trợ tỉnh Khăm Muộn thêm kinh phí hơn 7 tỷ đồng để xây dựng hệ thống nhà lớp học tại Trường Hữu nghị Quảng Bình - Khăm Muộn. Trong quá trình xây dựng và sửa chữa Trường Hữu nghị Quảng Bình - Khăm Muộn, cộng đồng cư dân Việt tại tỉnh Khăm Muộn cũng có những đóng góp tích cực. Trường Hữu nghị Khăm Muộn - Quảng Bình là món quà của chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Bình tặng tỉnh Khăm Muộn. Trường hiện có 75 giáo viên, trong đó có 2 giáo viên người Việt Nam tình nguyện sang giảng dạy ở đây. Toàn trường có trên 1350 học sinh thuộc 4 cấp học, trong đó, tỉ lệ học sinh người Việt chiếm hơn 50% (Báo cáo số 08-BC/TU, tr.4). Trong hợp tác giáo dục giữa hai tỉnh Quảng Bình và Khăm Muộn, nổi bật lên vai trò của những người dạy tiếng Việt. Là tỉnh kết nghĩa với Khăm Muộn, tỉnh Quảng Bình đã cử giáo viên sang dạy tiếng Việt theo định kỳ 3 năm tại Trường Hữu nghị Khăm Muộn - Quảng Bình và Trường Tiểu học Thống nhất. Trong chuyến thực tế tại Khăm Muộn vào tháng 4 năm 2019, chúng tôi đã được gặp gỡ và trò chuyện với những giáo viên người Việt đang công tác tại Trường Tiểu học Thống Nhất. Trong số họ, có những người còn rất trẻ, như cô giáo Đinh Thị Thơm (25 tuổi), sau khi tốt nghiệp cử nhân Sư phạm Tiểu học tại Trường Đại học Quảng Bình, cô đã sang Khăm Muộn đến nay được hơn 2 năm. Hoặc có những người đã “bám trụ” lại với công việc dạy chữ ở đây khá lâu, như thầy giáo Trương Văn Phương (quê ở Lệ Thủy, Quảng Bình) sống, giảng dạy đến nay là 10 năm và đã đưa vợ (cũng là giáo viên) sang dạy học (Tư liệu điền dã của tác giả tại Khăm Muộn tháng 4/2019). Cuộc sống của họ khá giản dị và với họ, được dạy tiếng Việt cho con em Việt kiều là một hạnh phúc rất lớn, bởi thông qua đó, họ đã góp phần gìn giữ tiếng nói của quê hương mình. Mặt khác, một trong những việc làm quan trọng thúc đẩy hợp tác là Hội hữu nghị Việt kiều Khăm Muộn kết hợp với phòng đối ngoại (nay đổi thành Sở Ngoại vụ) tỉnh Quảng Bình đã mở các lớp dạy học tiếng Lào cho cán bộ giáo viên của tỉnh Quảng Bình, nhờ vậy sự hiểu biết và giao lưu, hợp tác lẫn nhau giữa nhân dân hai tỉnh ngày càng dễ dàng hơn. Trong các cộng đồng của người Việt SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 74 (02/2021) 46 tại Lào nói chung và tại tỉnh Khăm Muộn nói riêng, bản Xiềng Vang (huyện Nông Bốc) là một điển hình. Bản này là nơi Bác Hồ đã từng sống, hoạt động cách mạng trong những năm 1928-1929. Tại đây, Người đã soạn tài liệu tuyên truyền, mở lớp dạy chữ, đào tạo cán bộ cách mạng cho các Việt kiều yêu nước và những người Lào tiến bộ. Để ghi nhớ công ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được sự cho phép của Chính phủ nước CHDCND Lào, vào năm 2009, Khu Lưu niệm Hồ Chí Minh bắt đầu được xây dựng ngay tại vùng đất này trên khuôn viên diện tích gần 2.000m² do 13 gia đình cư dân Việt kiều Xiềng Vang hiến tặng. Năm 2012, Khu lưu niệm Hồ Chí Minh được khánh thành như là biểu tượng tình cảm gắn kết mối quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh còn được coi là mái ấm cho Hội Việt kiều hướng về quê hương, cũng là điểm sáng cho tình hữu nghị Việt - Lào mà mỗi người con Việt Nam khi đến đất nước Triệu Voi đều ghé thăm. Trong quá trình hoạt động, Hội Việt kiều tỉnh Khăm Muộn cũng rất chú trọng công tác giáo dục cho con em người Việt, chú ý đến việc gìn giữ tiếng Việt và văn hóa dân tộc. Năm 2009, trong chuyến thăm và làm việc của Hội Việt kiều tỉnh Khăm Muộn tại tỉnh Quảng Bình, Hội đã trao tặng số tiền 600 USD cho Hội khuyến học tỉnh Quảng Bình với mong muốn được góp phần động viên, khuyến khích tinh thần học tập của con em quê nhà (Báo cáo số 08-BC/ TU, tr.4). Hội cũng đã xây dựng quỹ và làm công tác nhân đạo đối với quê hương Quảng Bình như khi bị bão lụt vào các năm 2013, 2014. Cộng đồng Việt kiều tại Lào thông qua tổ chức Hội của mình cũng đã tích cực tham gia các hoạt động do Đại sứ quán, Tổng hội Việt kiều tại Lào tổ chức như các hoạt động thể thao, văn nghệ chào mừng các ngày lễ lớn của hai dân tộc, ủng hộ phong trào đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ đồng bào bị thiên tai, chăm lo khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại bản Xiềng Vang, v.v. Một việc làm rất có ý nghĩa của cộng đồng người Việt tại tỉnh Khăm Muộn là thường xuyên tổ chức các Hội diễn văn nghệ quần chúng trong cộng đồng người Việt tại Lào. Tuy chưa đạt trình độ nghệ thuật như mong muốn, nhưng có thể nói đây là một biện pháp thiết thực có hiệu quả của cộng đồng người Việt đang làm ăn, sinh sống, công tác và học tập tại tỉnh Khăm Muộn, nhằm giáo dục truyền thống và ghi nhớ công ơn to lớn của lãnh tụ Hồ Chí Minh đối với đất nước cũng như vai trò của Người trong việc vun đắp mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào. Có thể nói, việc người Việt tại Khăm Muộn thông qua vai trò của Hội Việt kiều - mở trường, lớp dạy tiếng Việt cùng với những hoạt động cộng đồng được tổ chức thường xuyên, có tác động rất lớn đến việc gìn giữ văn hóa ngôn ngữ dân tộc trong thế hệ trẻ Việt kiều. Những hoạt động trên cũng động viên toàn thể hội viên là kiều bào người Việt chấp hành tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và được tặng thưởng nhiều bằng khen, giấy khen từ Nhà nước Lào. Đây là những việc làm có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của mối quan hệ hữu nghị giữa hai tỉnh Quảng Bình và Khăm Muộn trong tương lai. 3. Kết luận Hai tỉnh Quảng Bình và Khăm Muộn với hơn 180km đường biên giới chung, có sự gần gũi về vị trí địa lý, có mối quan hệ chặt chẽ nhiều mặt trong quá khứ cũng như trong hiện tại, có nhiều nét tương đồng về LẠI THỊ HƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 47 điều kiện tự nhiên và văn hóa. Nhân dân hai tỉnh có truyền thống đoàn kết hữu nghị lâu đời. Vì lẽ đó, sự giao lưu giữa nhân dân hai tỉnh Quảng Bình và Khăm Muộn sớm được hình thành. Trong tiến trình lịch sử, do nhiều nguyên nhân, một bộ phận người Việt Nam đã di cư tới các vùng khác nhau của Lào từng bước hình thành nên cộng đồng Việt kiều ngày càng đông đảo ở một số địa phương trên nước bạn, trong đó có Khăm Muộn. Sự thân thiết, tính cởi mở của người Lào cũng như sự quan tâm của chính phủ hai nước Việt Nam, Lào đã tạo điều kiện cho một bộ phận cư dân người Việt hội nhập, trở thành một bộ phận của xã hội Lào. Cùng với người Lào, người Việt đã đóng góp nhiều mặt cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước Lào. Đồng thời, họ cũng đóng vai trò quan trọng, là cầu nối thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị giữa hai tỉnh Quảng Bình và Khăm Muộn nói riêng, quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Lào nói chung ngày càng trở nên tốt đẹp hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Tuyên giáo Trung ương. (2017). Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1939-2007). Tài liệu tuyên truyền. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. Nguyễn Thị Tuyết Nhung. (2016). Quá trình di cư và hoạt động chính trị - xã hội của người Việt ở Lào. Hà Nội: Luận án Tiến sĩ Lịch sử, ĐHSP Hà Nội. Singapo Sikhotchounamaly, Nguyễn Chánh. (1990). “Thị xã Thà Khẹt tỉnh Khăm Muộn - Cách mạng mùa thu năm 1945”. Tài liệu lưu tại Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh bản Xiềng Vang, huyện Nong-Bốc. Phạm Đức Thành. (2008). Vai trò của cộng đồng người Việt ở Lào trong mối quan hệ Việt Nam - Lào. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Trần Văn Thọ. (2012). “Biên bản họp Ban chấp hành Hội người Việt tỉnh Khăm Muộn, ngày 23 tháng 4 năm 2012”, Hội người Việt tỉnh Khăm Muộn. Lương Duy Tâm. (1998). Địa lý - Lịch sử Quảng Bình, Bảo tàng Tổng hợp Quảng Bình. Tỉnh ủy Quảng Bình. (28/10/2010). Báo cáo số 08 - BC/ TU “Đánh giá tình hình và quan hệ hợp tác giữa tỉnh Quảng Bình với các địa phương nước CHDCND Lào”. Trung tâm lưu trữ tỉnh ủy Quảng Bình. Tư liệu điền dã của tác giả tại Khăm Muộn tháng 4/2019. ຄະ ນະ ກ ຳ ມະ ກຳນ ຄ ົ້ ນ ຄວົ້ ຳ, ສັງ ລວມ ແລະ ຂຽນ ປະ ຫວັດ ສຳດ ຂອງ ແຂວງ ຄ ຳ ມ່ວນ (2015), "ປະ ຫວັດ ຄວຳມ ເປັນ ມຳ ຂອງ ແຂວງ ຄ ຳ ມ່ວນ (ເມື ອງ ສີ ໂຄດ ຕະ ບອງ ວັດ ທະ ນະ ທ ຳ ແຫ່ງ ຊຳດ ບູ ຮຳນ)", ສ ຳ ນັກ ພິມ ແຫ່ງ ລັດ (Ủy ban nghiên cứu, biên soạn và viết lịch sử tỉnh Khăm Muộn. (2015). Lịch sử tỉnh Khăm Muộn (Lãnh thổ văn minh quốc gia Sikhottabong cổ xưa), tr.7, 22, 82. Viêng Chăn: NXB Nhà nước). Ngày nhận bài: 09/9/2020 Biên tập xong: 15/02/2021 Duyệt đăng: 20/02/2021
File đính kèm:
- cong_dong_nguoi_viet_o_kham_muon_lao_cau_noi_cua_quan_he_hop.pdf