Công bằng về cơ hội phát triển và tiếp cận nguồn lực giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam

Thực hiện công bằng giữa các thành phần kinh tế là một vấn đề có ý nghĩa cấp

bách cả về lý luận lẫn thực tiễn trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Có nhiều tiêu chí khi xem xét về

công bằng giữa các thành phần kinh tế như: cơ hội phát triển; chính sách và

pháp luật; tiếp cận các nguồn lực; và phân phối. Bài viết phân tích, đánh giá

những kết quả chủ yếu đạt được trong thực hiện công bằng về cơ hội phát triển

và tiếp cận các nguồn lực, đảm bảo công bằng trên hai phương diện này là tiền

đề thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

Công bằng về cơ hội phát triển và tiếp cận nguồn lực giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam trang 1

Trang 1

Công bằng về cơ hội phát triển và tiếp cận nguồn lực giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam trang 2

Trang 2

Công bằng về cơ hội phát triển và tiếp cận nguồn lực giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam trang 3

Trang 3

Công bằng về cơ hội phát triển và tiếp cận nguồn lực giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam trang 4

Trang 4

Công bằng về cơ hội phát triển và tiếp cận nguồn lực giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam trang 5

Trang 5

Công bằng về cơ hội phát triển và tiếp cận nguồn lực giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam trang 6

Trang 6

Công bằng về cơ hội phát triển và tiếp cận nguồn lực giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam trang 7

Trang 7

Công bằng về cơ hội phát triển và tiếp cận nguồn lực giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam trang 8

Trang 8

Công bằng về cơ hội phát triển và tiếp cận nguồn lực giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam trang 9

Trang 9

Công bằng về cơ hội phát triển và tiếp cận nguồn lực giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang xuanhieu 2300
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Công bằng về cơ hội phát triển và tiếp cận nguồn lực giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Công bằng về cơ hội phát triển và tiếp cận nguồn lực giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam

Công bằng về cơ hội phát triển và tiếp cận nguồn lực giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
sự bình đẳng giữa các loại 
hình DN đã được quy định trong Hiến 
pháp và pháp luật, nhưng theo phản 
ánh của cộng đồng DN, trên thực tế 
sự phân biệt đối xử vẫn còn khá lớn; 
một bộ phận lớn các doanh nghiệp 
dân doanh là các doanh nghiệp nhỏ 
và vừa (DNNVV) chưa thực sự được 
đối xử bình đẳng với khối DNNN, 
doanh nghiệp FDI. 
Kết quả điều tra PCI giai đoạn 2006-
2019 cho thấy vẫn tồn tại một “sân 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (270) 2021 
21 
chơi” chưa thật sự bình đẳng giữa 
các loại hình DN, mà thiệt thòi nhất 
vẫn là nhóm doanh nghiệp dân doanh 
nhỏ và vừa dù nhóm này đang chiếm 
số lượng không nhỏ trong nền kinh tế. 
Dù đã giảm so với các năm trước, 
nhưng vẫn còn 21% DN cho rằng 
“các doanh nghiệp có phần vốn nhà 
nước thường dễ dàng hơn trong việc 
có được hợp đồng từ cơ quan nhà 
nước”. 
Nghị quyết 02/NQCP ngày 1/1/2019, 
Chính phủ đã đánh giá rất thẳng thắn 
về tình hình thực hiện các nhiệm vụ, 
giải pháp cải thiện môi trường kinh 
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh 
quốc gia, khi cho rằng “một số hành 
động cải cách chưa thực chất, còn 
hình thức” và “không ít nơi, ít lúc 
doanh nghiệp, người dân vẫn bị gây 
khó khăn, nhũng nhiễu bởi những quy 
định còn nặng tính cục bộ của một số 
cơ quan công quyền và một bộ phận 
công chức, viên chức” (Nghị quyết, 
1/1/2019). Điều tra PCI những năm 
qua cho thấy một số lĩnh vực thủ tục 
hành chính được DN đánh giá là “còn 
nhiều phiền hà”, như đất đai (35%), 
thuế, phí (25%), bảo hiểm xã hội (23%) 
(Malesky, 2019: 63). 
3.2. Công bằng trong tiếp cận các 
nguồn lực 
Trong những năm qua, Đảng và Nhà 
nước đã tạo mọi điều kiện thuận lợi 
để tất cả các chủ thể kinh tế trong nền 
KTTT đều có quyền ngang nhau trong 
việc tiếp cận với tư liệu sản xuất và 
những điều kiện sản xuất, kinh doanh 
dưới nhiều hình thức khác nhau, phù 
hợp với năng lực phát triển của từng 
chủ thể kinh tế. Có thể kể đến một số 
quyền quan trọng như: quyền vay vốn, 
quyền chuyển nhượng, thế chấp tài 
sản, quyền sử dụng đất, quyền được 
bảo hộ sản xuất... Để thực hiện mục 
tiêu đó, Nhà nước đã xây dựng và 
thực hiện chính sách phát triển các 
loại thị trường, từng bước đồng bộ 
hóa các loại thị trường này. Nhà nước 
cũng chú ý đến sự thống nhất hữu cơ 
và mối quan hệ lẫn nhau của các loại 
thị trường, đặc biệt là các thị trường 
cung ứng tư liệu sản xuất đầu vào cho 
nền kinh tế, như: thị trường lao động, 
thị trường vốn, thị trường khoa học và 
công nghệ-thông tin, thị trường bất 
động sản Trong đó, các thị trường 
quan trọng: sức lao động, tiền tệ, bất 
động sản đã được nhà nước đặc biệt 
quan tâm, ban hành nhiều chính sách 
điều chỉnh, định hướng phát triển theo 
hướng lành mạnh hóa, chống độc 
quyền và theo quy luật của KTTT. 
Nghiên cứu của Phòng Thương mại 
và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) năm 
2011 về 16 luật và khoảng 200 văn 
bản hướng dẫn của Chính phủ đang 
có hiệu lực, liên quan nhiều nhất và có 
nhiều vướng mắc đến thời điểm đó, 
trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên 
cứu, rà soát từng nội dung, quy định 
cụ thể, các chuyên gia đã chỉ ra 8 “cái 
được” của các luật này, trong đó quan 
trọng nhất là các quy định hiện hành 
đã tạo điều kiện cho các DN được tiếp 
cận thị trường, tiếp cận các nguồn lực: 
đất đai, vốn, nhân lực (Nguyễn Thị 
Lan Hương, 2016: 102-103). 
HỒ TRẦN HÙNG – CÔNG BẰNG VỀ CƠ HỘI PHÁT TRIỂN 
22 
Thứ nhất, nguồn lực đất đai. Các 
TPKT từng bước được xác định 
quyền bình đẳng, quyền tiếp cận, 
quyền được nhà nước giao đất, cho 
thuê đất để thực hiện dự án đầu tư, 
làm mặt bằng sản xuất kinh doanh và 
nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. 
Luật Đất đai qua nhiều lần được sửa 
đổi đã quy định quyền sử dụng đất lâu 
dài của cá nhân, các TPKT, đồng thời 
có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình 
hình thực tiễn. DN thuộc các TPKT 
khác nhau được bình đẳng trong 
quyền sở hữu, sử dụng đất lâu dài. 
Không những thế, các DNNVV, phần 
lớn thuộc TPKT tư nhân, không 
những không bị phân biệt đối xử mà 
còn được trợ giúp phát triển. 
Luật Đất đai bổ sung (2013) quy định 
cụ thể, rõ ràng từ nguyên tắc đến nội 
dung việc mở rộng dân chủ, công khai 
trong quá trình lập quy hoạch, kế 
hoạch sử dụng đất. Luật đã dành một 
chương để quy định về việc xây dựng 
hệ thống thông tin đất đai, cơ sở dữ 
liệu đất đai, hệ thống giám sát, theo 
dõi, đánh giá đối với quản lý và sử 
dụng đất đai được công khai, minh 
bạch và đảm bảo dân chủ trong điều 
kiện đất đai thuộc sở hữu toàn dân và 
đảm bảo quyền tiếp cận thông tin đất 
đai của mọi người dân. Công dân có 
quyền tự mình hoặc thông qua các tổ 
chức đại diện thực hiện quyền giám 
sát và phản ánh các sai phạm trong 
quản lý và sử dụng đất đai. Ngoài ra, 
Luật Đất đai mới đã thiết lập sự bình 
đẳng hơn trong quyền được tiếp cận 
đất đai giữa nhà đầu tư trong nước và 
nước ngoài; quy định cụ thể điều kiện 
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất 
để thực hiện dự án đầu tư nhằm lựa 
chọn được nhà đầu tư có năng lực 
thực hiện dự án 
Thứ hai, là nguồn lực vốn, một nguồn 
lực đặc biệt quan trọng mang tính 
sống còn của DN. Trong khoảng hơn 
10 năm trở lại đây, Nhà nước đã ban 
hành rất nhiều chính sách hỗ trợ cho 
các DN, đặc biệt là các DNNVV (chủ 
yếu thuộc khu vực dân doanh). Để hỗ 
trợ các DNNVV, Chính phủ đã nỗ lực 
thực hiện nhiều giải pháp, trong đó tập 
trung vào giải pháp về nguồn vốn. 
Quỹ phát triển DNNVV được đưa vào 
hoạt động (từ năm 2014), là một trong 
những biện pháp quan trọng giúp 
DNNVV tiếp cận nguồn vốn phục vụ 
sản xuất, kinh doanh. Đối tượng được 
hỗ trợ là các DN có tiềm năng phát 
triển tốt, có dự án, phương án kinh 
doanh khả thi và những DN nằm trong 
diện ưu tiên, như DN phụ trợ, DN chế 
biến nông sản, DN xuất khẩu... Thông 
tư số 39/2016/NHNN của Ngân hàng 
Nhà nước nhằm hỗ trợ cho các 
DNNVV có dự án, phương án sản 
xuất - kinh doanh khả thi thuộc lĩnh 
vực ưu tiên, khuyến khích của Nhà 
nước, nhằm nâng cao khả năng cạnh 
tranh của doanh nghiệp, góp phần làm 
tăng thu nhập, tạo việc làm cho người 
lao động. Theo đánh giá của cộng 
đồng DN, các chính sách này bước 
đầu đã phát huy hiệu quả nhất định 
trong việc giải bài toán khó về thiếu 
vốn cho các doanh nghiệp dân doanh, 
đặc biệt là DNNVV. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (270) 2021 
23 
Thứ ba, là việc phân bổ nguồn nhân 
lực. Có thể nói, việc chuyển dịch cơ 
cấu hợp lý của nền kinh tế trong thời 
gian qua đã tác động tích cực đến sự 
hình thành một cơ chế phân bổ nguồn 
nhân lực có hiệu quả, theo hướng 
hình thành các quan hệ thị trường lao 
động. Sự chuyển dịch cơ cấu lao 
động theo khu vực kinh tế là chuyển 
biến quan trọng trong phân bố nguồn 
lực lao động để khai thác tốt tiềm 
năng của các khu vực kinh tế trong 
nền KTTT hiện nay. Kết quả của sự 
chuyển dịch đó là tỷ trọng lao động 
của khu vực ngoài nhà nước (doanh 
nghiệp dân doanh và doanh nghiệp 
FDI) tăng mạnh trong thời gian qua, từ 
56,4% giai đoạn 2001-2005 lên 76,8% 
giai đoạn 2006-2010 và đến hết năm 
2018, là 92,4%, trong đó khu vực 
doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm 
60,6%; khu vực doanh nghiệp FDI 
chiếm 31,8% (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 
2020: 43). Nếu thời điểm 2006, số 
lượng lao động làm việc cho các DN 
khu vực ngoài nhà nước chỉ khoảng 
hơn 3 triệu, năm 2014 tăng hơn 10,5 
triệu, đến cuối 2018 là 13,7 triệu, ngay 
cả trong những giai đoạn lạm phát và 
suy thoái kinh tế, số lượng lao động ở 
khu vực này thực tế vẫn không giảm. 
Ở tiêu chí “Dịch vụ hỗ trợ DN”, khảo 
sát PCI 5 nhóm dịch vụ gồm: (i) Cung 
cấp thông tin thị trường, (ii) Tư vấn 
thông tin pháp luật, (iii) Hỗ trợ tìm 
kiếm đối tác kinh doanh, (iv) Xúc tiến 
thương mại và hội chợ/triển lãm, (v) 
Công nghệ và các dịch vụ liên quan 
thì chất lượng cung cấp ở cả 5 dịch vụ 
đều được cải thiện nhiều so với thời 
điểm bắt đầu (năm 2009) khảo sát. Đó 
là những tín hiệu đáng mừng trong nỗ 
lực của Chính phủ và các địa phương 
nhằm từng bước tạo lập quyền bình 
đẳng trong tiếp cận các nguồn lực 
phục vụ sản xuất, kinh doanh của các 
DN khu vực kinh tế ngoài nhà nước. 
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả 
tích cực ấy, vẫn còn những bất cập 
trong thực hiện công bằng, bình đẳng 
trong tiếp cận nguồn lực đối với các 
TPKT. Các DN khu vực ngoài nhà 
nước khi được khảo sát vẫn đánh giá 
họ chưa thực sự được đối xử công 
bằng (so với DNNN). Trong khi doanh 
nghiệp dân doanh phải “gồng mình” 
đấu tranh để sinh tồn: tự bỏ vốn, tự tổ 
chức, tự chủ trong kinh doanh và tự 
bù lỗ, thì DNNN thường là những DN 
lớn được ưu tiên về đất đai, tín dụng, 
thuế, tiếp cận khoa học kỹ thuật, hợp 
đồng mua sắm, tiêu thụ sản phẩm 
thậm chí không sợ phá sản cho dù 
thua lỗ kéo dài, luôn tận dụng được 
“cơ chế xin - cho” trong phân phối và 
tiếp cận các nguồn lực  
Mặt khác, so sánh tương quan về hiệu 
quả đầu tư của hai khu vực này cũng 
cho thấy sự chưa phù hợp nhất định 
giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống 
hiến và hưởng thụ nếu xét trên tiêu 
chí của “công bằng”. Số liệu nghiên 
cứu về tác động của đầu tư đối với 
tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai 
đoạn 2012-2017 cho thấy, nếu tăng 
1% tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ 
khu vực DNNN làm tăng 0,37% GDP; 
từ khu vực DN ngoài nhà nước, hộ cá 
HỒ TRẦN HÙNG – CÔNG BẰNG VỀ CƠ HỘI PHÁT TRIỂN 
24 
thể và hộ dân cư làm tăng 0,80%... 
(Đinh Trọng Thắng, 2019). Như vậy, 
xét trên hiệu quả đầu tư (riêng góc độ 
kinh tế), thì khu vực ngoài nhà nước 
vẫn đang phát huy hiệu quả tốt hơn 
khu vực KTNN. Phó Chủ nhiệm Ủy 
ban Tài chính - Ngân sách của Quốc 
hội cho rằng: a trụ cột của nền kinh 
tế, gồm DNNN, DN tư nhân và DN 
FDI đang phát triển tương đối đồng 
đều, xét ở quy mô đóng góp vào GDP. 
Nhưng hiệu quả sử dụng nguồn lực 
của xã hội và hiệu quả hoạt động thì 
khác nhau. Cụ thể, hiện nay, DNNN 
đóng góp gần 40% vào GDP, 60% 
còn lại của GDP là đóng góp từ DN tư 
nhân và DN FDI, mỗi bên gần 30%. 
Nhưng về sử dụng nguồn lực xã hội, 
khoảng 60% nguồn lực đang tập trung 
cho DNNN. Tức là trong 100 đồng tín 
dụng cho vay, DNNN vay 60 đồng 
song chỉ làm ra 40% GDP, các thành 
phần còn lại vay 40 đồng, làm ra 60% 
GDP. Con số này cho thấy khu vực 
DNNN sử dụng vốn chưa hiệu quả 
(Báo Nhân dân, ngày 29/6/2019). Bên 
cạnh đó, còn gặp khó khăn về mặt 
bằng sản xuất kinh doanh, thủ tục 
hành chính liên quan đến đất đai hay 
rủi ro bị thu hồi đất kinh doanh. Đây 
cũng là một nguyên nhân khiến DN 
không tự tin mở rộng đầu tư và xây 
dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, 
đặc biệt là các DN FDI. Cả DN trong 
nước mà các DN FDI đều bày tỏ 
mong muốn được giảm thiểu thủ tục 
hành chính và chi phí kinh doanh cho 
doanh nghiệp, đảm bảo mặt bằng lãi 
suất phù hợp; giảm bớt các mức đóng 
góp của người sử dụng lao động; 
giảm giá thuê đất, giảm mức thu phí, 
một số loại phí, lệ phí; đồng thời được 
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong 
hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài 
ra, chính sách thuế; chính sách ưu đãi 
đầu tư; giải quyết các vấn đề của sau 
cổ phẩn hóa cũng cần được tiếp tục 
điều chỉnh, bổ sung và cụ thể hóa 
trong các luật như Luật Đầu tư, Luật 
Doanh nghiệp, Luật Cạnh tranh trong 
thời gian tới (Đức Dũng, 2020). 
4. KẾT LUẬN 
Với quyết tâm cải cách mạnh mẽ nền 
kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc 
tế sâu rộng, Đảng và Nhà nước ta đã 
chú trọng việc thực hiện công bằng 
đối với các TPKT trên cả phương diện 
lý luận lẫn thực tiễn, từ những thay đổi 
trong nhận thức của Đảng, đến những 
hoạch định, thực thi chính sách, điều 
hành của Nhà nước đã thu được 
nhiều kết quả tích cực. Kinh tế nhà 
nước ngày càng thể hiện tốt hơn vai 
trò đầu tàu, “chủ đạo”, dẫn dắt nền 
kinh theo định hướng XHCN; kinh tế 
ngoài nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư 
nước ngoài có những phát triển vượt 
bậc, để lại dấu ấn quan trọng trong 
những năm qua, góp phần nâng cao 
năng lực và sức cạnh tranh của nền 
kinh tế. Bên cạnh những thành tựu đã 
đạt được, quá trình thực hiện công 
bằng giữa các TPKT ở nước ta còn 
tồn tại bất cập, hạn chế cần khắc phục 
để phát triển bền vững. Bởi thực hiện 
tốt công bằng trong kinh tế không chỉ 
là động lực thúc đẩy tăng trưởng, phát 
triển kinh tế mà còn là cơ sở cho việc 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (270) 2021 
25 
thực hiện công bằng xã hội nói chung, 
góp phần sớm đưa đất nước hoàn 
thành mục tiêu dân giàu, nước mạnh, 
công bằng, dân chủ, văn minh.  
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Bạch Huệ. 2019. “ ức tranh doanh nghiệp nhà nước 2018”. 
tranh-doanh-nghiep-nha-nuoc-2018-doanh-thu-193510-ty-lai-26425-ty-
20190417110733606.htm, truy cập ngày 18/01/2021. 
2. an Mai. 2021. “Ngành thuế không để tình trạng “trên nóng, dưới 
lạnh”. https://thanhtra.com.vn/chinh-tri/doi-noi/nganh-thue-khong-de-tinh-trang-tren-nong-
duoi-lanh-176521.html, truy cập ngày 25/1/2021. 
3. Báo Nhân dân. 2019. “Tìm lại sức mạnh cho doanh nghiệp nhà nước”. https://nhan 
dan.com.vn/tin-tuc-kinh-te/tim-lai-suc-manh-cho-doanh-nghiep-nha-nuoc-362749, truy cập 
ngày 19/01/2021. 
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 2020. Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2020. Hà Nội: 
Nxb. Thống kê. 
5. Chí Hiếu. 2020. “Cần công bằng, minh bạch trong tiếp cận nguồn lực”. https://thanh 
nien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/can-cong-bang-minh-bach-trong-tiep-can-nguon-luc-
1170635.html, truy cập ngày 18/1/2021. 
6. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 1/1/2019 
về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, 
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021. 
7. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2006. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Hà Nội: 
Nxb. Chính trị Quốc gia. 
8. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2006. Văn kiện Đảng toàn tập - tập 47. Hà Nội: Nxb. Chính 
trị Quốc gia. 
9. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2012. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Hà Nội: 
Nxb. Chính trị Quốc gia. 
10. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2016. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn 
phòng Trung ương Đảng. Hà Nội. 
11. Đinh Trọng Thắng. 2019. “Quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân trong phát 
triển kinh tế”. 
dau-tu-tu-nhan-trong-phat-trien-kinh-te-305137.html, truy cập ngày 25/1/2021. 
12. Đức Dũng. 2020. “Doanh nghiệp kỳ vọng bình đẳng tiếp cận các nguồn lực”. 
nguon-luc-318395.html, truy cập ngày 18/1/2021. 
13. Malesky, E.J. 2019. Báo cáo chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2019. 
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). 
14. Nguyễn Thị Lan Hương (chủ biên). 2016. Thực hiện công bằng xã hội đối với các 
thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 
15. Tạp chí Tài chính. 2018. “Đến năm 2020, cả nước chỉ còn khoảng hơn 100 doanh 
nghiệp nhà nước”. 
chi-con-khoang-hon-100-doanh-nghiep-nha-nuoc-145833.html, truy cập ngày 19/1/2021. 
16. Thông tấn xã Việt Nam. 2018. “Số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm mạnh”. 
https://baodautu.vn/infographic-so-luong-doanh-nghiep-nha-nuoc-giam-manh-
d76783.html, truy cập ngày 19/1/2021. 

File đính kèm:

  • pdfcong_bang_ve_co_hoi_phat_trien_va_tiep_can_nguon_luc_giua_ca.pdf